Cô em gái hỏi:“Anh có về không? Tối nay mẹ với em đi tàu
lửa, về ga Trà Kiệu. Mai anh em mình gặp nhau ở quê nghe anh”.
Nghe sao mà nôn nao.
Thằng Tí gả con gái đầu lòng. Mới ngày nào…
“Chuyến bay của hãng
hàng không Jetstar Pacific sẽ cất cánh trong ít phút nữa. Kính mời những hành
khách cuối cùng của chuyến bay BL608 nhanh chóng đến cửa số 6, để làm thủ tục
khởi hành. Xin nhắc lại…”
Chuyến bay đã bị
delay hơn ba giờ so với dự định do thời tiết, sân bay quốc tế Đà Nẵng về đêm
sáng choang, ông Bình nhìn quanh, không một người quen. Ông cảm thấy cô đơn
giữa giòng người đón đưa trên sân ga, rồi vội vã vẫy taxi…
- Bác về đâu?
Ông phân vân, ngập ngừng:
- Cho bác xuống phố…
Ông hướng dẫn lái xe chạy vòng vèo, từ sân bay rẽ sang đường Nguyễn Hữu
Thọ, căn nhà của ông bên kia cửa đã đóng, ông bảo xe dừng. Cây hoàng lan tỏa
vào đêm hương thơm ngát, nhưng nay nhà đã bán đi rồi.
Rẽ trái, đường Trưng Nữ Vương vắng lặng, đêm đã về khuya. Ngang qua chợ
Mới, chợ đã dời vào sâu trong Tứ Bang. Gần ngã ba Hoàng Diệu có nhà sách Mai
Hoa, photo Xuân Ảnh, đối diện tiệm bánh mì thịt nguội Tiến Thành nổi tiếng một
thời, nhà thờ Hòa Thuận kế bên lối vào trường tiểu học Hòa Vang.
Ngã ba thịt chó đây rồi! Ngã ba Phan Chu Trinh - Trưng Nữ Vương. Gọi ngã ba thịt chó vì có quán thịt chó của ông Ng. -
cha Ngọc - học cùng lớp với ông ở trường Sào Nam - Trường của ông Thị Tý. Sau
năm 1954 mới có quán thịt chó này. Ông Bình nhìn
vào kiệt 1 Phan Chu Trinh, cây cột điện vẫn còn chỗ cũ, con hẻm cụt mờ mờ ánh
đèn vàng hiu hắt, những kỷ niệm thời trai trẻ ùa vào tâm trí ông.
Cách nhà ông Ng. hai căn trên đường Trưng nữ Vương là
nhà hộ sinh Bà Quế nơi ông được sinh ra thuộc làng Nại Hiên xưa, Đà Nẵng.
Theo sách “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn viết năm 1776, làng Nại Hiên
thuộc tổng Hòa Mỹ, huyện Tân Phước, tỉnh Quảng Nam có Đình tổ Nại Hiên. Theo
Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, Nại là chịu đựng (còn có nghĩa khác là xứ làm
muối), Hiên là mái hiên. Như vậy, Nại Hiên là tiền đình, chịu đựng được mưa sa,
gió bão.
Năm 1744 thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, Nại Hiên thuộc huyện Tân Phước,
đến triều Nguyễn Nại Hiên thuộc huyện Hòa Vang, Quảng Nam. Năm 1888, Pháp buộc
vua Đồng Khánh phải giao các xã Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương,
Nại Hiên để hình thành Đà Nẵng. Năm 1901, vua Thành Thái giao tiếp phần đất một
số xã thuộc huyện Diên Phước và Hòa Vang để nới rộng thành phố Đà Nẵng.
Đình Nại Hiên bây giờ vẫn còn haicâu đối:“Nhật xuất đông hiên vạn vật hướng dương hàm cổ sắc/ Long hoàn tây
nhạn thiên thu diễn phái ngưỡng văn quang”(Trời mọc hướng đông, vạn vật đều
quy ngưỡng, nuôi dưỡng dựng lên muôn màu/ Rồng bay chim nhạn múa nghìn năm phát
triển về hướng tây đều không quên nơi xuất phát) - “Thánh
trạch vân nhu văn vật y quan tương thử địa/ Thần thông tạo hóa thái hòa cảnh
tượng khí ư thiên” (Đất thánh văn chương êm dịu áo mão cân đai nơi xuất xứ/
Trời cao mầu nhiệm thái hòa tạo nên cảnh tượng chính nơi đây).
Đà Nẵng “trong “Ô Châu cận lục” không phải là một địa danh hành chính mà chỉ là tên
gọi của một cửa biển. Inrasara (tức Phú Trạm, nhà thơ và nhà
nghiên cứu văn hoá Chăm) cho rằng Đà Nẵng là biến dạng của từ Chăm cổ Đaknan. Đak có nghĩa là nước, nan hay nưn,
tức Ianưng là rộng. Địa danh Đaknan hàm ý chỉ vùng sông nước rộng mênh mông ở
cửa sông Hàn, tất các biến thể của ngôn ngữ Chăm Pa từ “Da Năng” thành Ênang, Ch'nang, R’nang trong ngôn ngữ
Chăm, Gia Rai, Ê đê, Raglai ngày nay đêu mang nghĩa là bình yên, thanh bình. Kampong Danang tức
là “Bến sông thanh bình”. Từ năm 1888 cho đến hết thời Pháp
thuộc, Tourane là tên chính thức của Đà Nẵng
Con đường Phan Chu Trinh rợp bóng cây kiền kiền
cao tít tắp. Những trưa hè cả nhà trải chiếu quây quần dưới gốc cây, người lớn cầm
quạt phe phẩy kể chuyện làng chuyện xóm, chuyện đông tây kim cổ,Thạch Sanh Lý
Thông…
Cuối kiệt 1 có con đường nhỏ nép dưới hàng
tre râm mát dẫn đến trường tiểu học Sào Nam.
Từ ngã ba “thịt chó” theo đường Phan Chu Trinh xuôi
về trung tâm thành phố, cách nhà ông khoảng hơn trăm mét đến kiệt (hẻm) vào
chùa Diệu Pháp thông ra đường Hoàng Diệu. Bên
kia đường là nhà thương Phao-lồ, trường Thọ Nhơn của người Hoa. Phía đối diện
có chùa Phổ Đà cổ kính với những cây sứ trắng hương thơm ngát, ngã ba Phan Chu
Trinh – Chu văn An có quán cà phê Quỳnh Châu với cô chủ quán đẹp ngất trời mây,
rẽ phải đường Lê Đình Dương đến trường Sao Mai, cổ viện Chàm, bánh bèo Quan
thuế, dọc theo sông Hàn…
Bà ngoại mỗi đêm hay dắt ông đi coi hát bội
tại rạp Hoà Bình (Nguyễn Hiển Dĩnh).
Ông khóc theo bà khi gặp cảnh éo le, ông cười ngặt nghẽo khi anh hề làm trò.
Qua ngã năm đến rạp ciné Lido, nhà hát Trưng Vương. Tiếp nối là đường Lê Lợi, băng
qua Hùng Vương đến trường nữ trung học Hồng Đức, trường Phan Chu Trinh, Phan
Thanh Giản, bán công Nguyễn Công Trứ thẳng đến đường Đống Đa, khu Thanh Bồ-Đức
Lợi của những người Bắc di cư và bờ biển Thanh Bình với ngút ngàn phi lao reo
vui trong gió.
Nhừng đêm trăng cả con trai con gái kéo
nhau ra khoảng sân rộng trước nhà ông chơi trò “bịt mắt bắt dê”, có khi ông túm trúng ngực một em, đôi gò bồng đảo
mới nhú sao cảm thấy lòng lâng lâng…
Nơi đây, bà đã tặng ông tình yêu đầu đời. Nhà bà đối diện nhà ông, những
lần đón đưa tan trường... Bao người bà con hàng xóm thân thương đâu rồi, ông
cảm thấy mình như Từ Thức, xa cách mấy trăm năm.
Trường Thọ Nhơn đã mang tên khác. Bên kia, chùa Phổ Đà còn vọng tiếng
kinh, ru hồn ông bay theo mùi hoa sứ thoang thoảng trong không gian mơ hồ.
Góc ngã ba Chu Văn An, cà phê Quỳnh Châu không còn dấu tích, nay là nhà
trẻ HH.
Anh lái xe im lặng nhìn ông, lúc dừng lúc chạy. Đôi mắt ông già đăm
chiêu đôi lúc thở dài. Anh cảm thông cho kẻ ly hương, hình như đã lâu lắm rồi
ông không trở lại chốn xưa, nghe ông lẩm bẩm những cái tên thật lạ lẫm với anh,
dù anh sinh ra và lớn lên ngay tại thành phố này. Nỗi u hoài của ông khiến lòng
anh cũng thấy bùi ngùi.
Từ ngã tư Lê Đình Dương rẽ phải về Cổ Viện
Chàm, ông bấm cửa kính xe để nhìn cho rõ. Ngôi trường Sao Mai, nơi lưu giữ bao
kỷ niệm thời thơ dại của ông đã không còn nữa.
“Sông kia rày đã nên đồng
“Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”
(Sông lấp - Trần
Tế Xương)
Ông Bình như nhìn thấy chiếc bóng mình lẽ loi trải dài vào tận sân trường,
nơi những chiếc áo thụng đen của các Cha, các Thầy phất phơ theo bước chân
khoan thai vào lớp.
Bánh bèo Quan Thuế bên kia đường Bạch Đằng, dòng sông Hàn đục ngầu lững
lờ trôi. Cầu Rồng soi bóng lung linh, dưới ánh đèn muôn màu rực rỡ. Anh lái xe ho
nhẹ. Ông muốn đi dọc sông Hàn, bên kia sông những tòa nhà cao ốc nguy nga bừng
sáng cả một góc trời.
Những chiếc cầu nối đôi bờ đã thay da đổi thịt cho Hà Thân, An Hải. Làng
chài heo hút, nghèo khó năm xưa.
“Đứng bên ni Hàn, Ngó bên tê Hà Thân, Nước xanh như tàu lá,
“Đứng bên ni Hàn, Ngó bên tê Hà Thân, Nước xanh như tàu lá,
Đứng
bên tê Hà Thân, Ngó về Hàn, phố xá nghênh ngang,
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn,
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn,
Đào
sông Cầu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu,
Dặn
lòng ai dỗ đừng xiêu,
Ở
nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau” (ca dao)
Bình minh đã ửng hồng, biển Thanh Bình phẳng lì như tấm lụa xanh thẳm, Hải
Vân quan mờ mịt trong mây, bên Tiên Sa thấp thoáng những chiếc tàu nhấp nhô
trên sóng, ông chợt nhớ những lần tuần duyên...
Em
- chim non - giữa mùa giông bão
Tan tác trời mây run rẩy bay
Đường xa thấp thoáng dòng ly biệt
Quê hương ngậm ngùi trong mắt cay
Tan tác trời mây run rẩy bay
Đường xa thấp thoáng dòng ly biệt
Quê hương ngậm ngùi trong mắt cay
Mỹ
Khê này em - tôi yêu em
Cát trắng hồn nhiên sóng dịu hiền
Ta - cố nhân chừ như khách lạ
Một đời phiêu bạt với truân chuyên
Cát trắng hồn nhiên sóng dịu hiền
Ta - cố nhân chừ như khách lạ
Một đời phiêu bạt với truân chuyên
Tiên Sa này em - tôi xa em
Tuần dương sóng bạc nhớ môi mềm
Sao Mai lấp lánh về phương nớ
Bắc đẩu tìm đâu trong sương đêm
Tuần dương sóng bạc nhớ môi mềm
Sao Mai lấp lánh về phương nớ
Bắc đẩu tìm đâu trong sương đêm
Ngũ Hành năm ngọn xa vời vợi
"Đệ nhất hùng quan" chẵng lối về
" Nhật mộ hương quan hà xứ thị..."
Chập chùng muôn dặm nẽo sơn khê
"Đệ nhất hùng quan" chẵng lối về
" Nhật mộ hương quan hà xứ thị..."
Chập chùng muôn dặm nẽo sơn khê
Lại một Xuân về - em có hay
Nam Ô này em - rừng dương say
Vi vu thổi mất tình trong mắt
Đà Nẵng này em - mưa bụi bay
…….
Nam Ô này em - rừng dương say
Vi vu thổi mất tình trong mắt
Đà Nẵng này em - mưa bụi bay
…….
Ông Bình không khỏi ngỡ
ngàng khi đứng trên cầu vượt ngã ba Huế nhìn về thành phố Đà Nẵng. Thành phố yêu thương của ông, ông không thể
hình dung, mùa đông miền Trung mưa rả rích suốt ngày đêm kèm theo những cơn gió
heo may se lạnh, tay ủ trong tà áo trắng bay đã không còn nữa, đường phố hối hả
với người và xe vun vút. Lòng người cũng đã vô tình hơn với ngay cả chính mình.
Chiếc xe mượn được từ
V. đã đưa ông thong thả về quê.
Sau 1954, giáo dân công
giáo từ miền Bắc di cư vào miền Trung. Họ tạm cư ven quốc
lộ 1, giáo xứ Phước Tường với những lán trại từ ngã Ba Huế đến
Hòa Cầm.
Nhà thờ Phước Tường,
sau này là sân trường Phaolô Lê Bảo Tịnh (hiện nay cũng đang bị mượn để làm
trường cấp 2 Nguyễn Đình Chiểu). Mùa hè năm 1958, Cha Quản xứ Simon Đinh Hưng
Lợi cho xây trường Lê Bảo Tịnh. Năm 1963, Cha Simon xây lại nhà thờ họ Đông
Phước (tức là nhà thờ giáo họ Thánh Tâm, gần sát cầu vượt Hòa Cầm hiện nay).
Nhà thờ họ Thánh Tâm (Đông Phước) nay cũng không còn nữa.
Ngang cầu vượt ngã ba
Hoà Cầm nhìn về Bà Nà núi Chúa mờ mịt trong mây. Qua cầu Đỏ, Phong Nam - Hoà
Châu ẩn sau màu xanh của rừng tre bạt ngàn. Làng Phong Lệ (Cẩm Lệ) quê hương
ông Ông Ích Khiêm, ông văn võ song toàn, tính tình bộc trực tuy hơi ngang
bướng.
“Ngươi (Ông Ích Khiêm) vốn là người học
thức mà ra, phải cái tính khí cương cường nóng nảy, phàm việc không chịu ở sau
người…Việc ngươi đánh dẹp bọn phỉ ở tỉnh Bắc, khí tiết, công lao, trẫm đều rõ hết…Thế
mà gần đây được tin là ngươi đến đâu phần nhiều dung túng cho quân sĩ làm càn.
Nếu quả thực như vậy thời dân còn trông mong gì nữa!...Nếu ngươi còn hối cải để
khỏi phụ cái ơn tri ngộ, thì là điều mà trẫm rất mong mỏi. Bằng cứ còn võ biền,
quên lời ân cần dạy bảo, thời trẫm phó mặc ngươi cho công luân triều đình, dù
ngươi có tài cũng không tha luôn mãi được...”(Lời vua Tự Đức).
Cháu nội
ông là Ông Ích Đường, con ông Ông Ích Kiền (Tán nhì), một nghĩa sĩ trong Nghĩa
hội Cần Vương.
Ông Ích Đường bị bắt và bị chém chết tại
chợ Túy Loan (nay thuộc xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang).Tại nơi hành hình ông
ung dung nói: "Dân nước Nam như cỏ cú, giết Đường này còn có trăm
nghìn Đường khác. Bao giờ hết mía mới hết Đường!". Vì vậy, người dân
đã quyên tiền lập miếu thờ "Cậu Đường" với hai câu đối điếu đề trước
cửa miếu: "Tinh thần thiên bất tử;
Nghĩa khí thế trường sanh" (Tinh thần còn mãi mãi; Nghĩa khí sống đời
đời).
Ngã ba Cẩm Lệ - Chợ
Miếu Bông điểm giao giữa QL.1A và đường Phạm Hùng -
hướng vào trung tâm thành phố Đà Nẵng qua cầu Cẩm Lệ, thuộc địa phận xã Hòa Phước
- huyện Hòa Vang. Nhìn về hướng tây, đường vào thôn Quan Châu nép mình dưới
bóng tre xanh, nơi bánh khô mè nổi tiếng của một miền quê đã vang danh xứ người.
Qua
khỏi cầu Quá Giáng, nhà thờ chư phái tộc Quá Giáng được xây dựng từ năm 1821 thờ
Quan Thánh và các vị tiền hiền của bốn tộc Đinh, Lê, Trần, Nguyễn, những người có công theo chúa Nguyễn vào Nam
khai phá lập nên làng Quá Giáng xưa bao gồm vùng Quá Giáng, Giáng Nam, Trà Kiểm,
An Lưu và xóm Cồn Mong.
Ông
Bình nhớ thời đi học ở Vĩnh Điện, cuối tuần ông đạp xe về ngoại, quê ngoại ông ở
bến đò Xu (nay là cầu Hoà Xuân), những chuyến đò ngang qua sông Cẩm Lệ chở tuổi
thơ ông sớm tối đi về.
Sau
năm 1954, Hòa Vang chia làm hai: quận Hiếu Đức và quận Hòa Vang, xã Hoà Đa (Hoà
Xuân) trực thuộc quận Hòa Vang, những tên làng thân thương: Lỗ Giáng, Trung
Lương, Tùng Lâm, Cổ Mân, Liêm Lạc, Cồn Dầu, Cẩm Chánh… gợi trong ông niềm u
hoài một thời xa lắc.
Thời
Pháp thuộc, làng Lỗ Giáng có ông Hồ Đắc Dĩnh làm chánh tổng An Lưu. Năm 1930,
ông Dĩnh đã xin Pháp cho huy động dân đắp con đường cái quan từ Quán Đoi (giáp
Hòa Châu) xuống cuối làng Lỗ Giáng, từ đó đoạn đường từ cầu Cẩm Lệ xuống Lỗ
Giáng đường rộng, xe ô tô đi được. Tại cầu Cẩm Lệ xuống Cồn Dầu ngã rẽ về Lỗ
Giáng, Trung Lương qua đò Khuê Đông, con đường chạy từ quán Đoi xuống Lỗ Giáng,
qua Tùng Lâm, xuống đò Mân Quang, sang Hòa Quý. Từ Miếu Bông qua Liêm Lạc xuống
Cổ Mân qua Lỗ Giáng thẳng xuống Trung Lương qua đò Xu vào Đà Nẵng.
Quê
ngoại ông có những dòng sông: Từ Tuý Loan, Cẩm Lệ xuống Cồn Nổi đổ ra sông Hàn,
nhánh kia từ Vĩnh Điện ra sông Cổ Mân qua Tùng Lâm, Trung Lương rồi hợp lưu với
sông Cẩm Lệ tại Cồn Nổi.
Ông ngoại có ghe bầu ngược xuôi thương hồ.
Tơ lụa, quế, hồi xứ Quảng đổi trao thổ sản miền Nam, cá mòi Phan Thiết. Đây
là loại thuyền mũi và lái đều nhọn, bụng bầu, độ ngấn nước sâu, nên thuyền có
khả năng ra khơi xa. Thuyền dùng loại buồm hình tứ giác hay cánh dơi. Mắt thuyền
khắc hình dài, trước tròn, đuôi mắt dài nhọn... Chính nhờ loại ghe bầu này mà
người dân Xứ Quảng có thể vươn ra khơi xa để đánh bắt cá, đặc biệt là việc tổ
chức đội lính Hoàng Sa, có thể dùng thuyền ra chiếm cứ và canh phòng đảo cách
xa đất liền.
Những
người dân đôn hậu, đã quên mất làng nghề. Những cánh đồng ngút ngàn cây trái,
lúa ngô, vườn rau biến mất, nhường chỗ cho khu đô thị sinh thái không có cây xanh. Những người dân tay lấm chân bùn,
nhớ cày nhớ cuốc, ngồi bó rọ buồn hiu trong những căn hộ tái định cư, vô công rỗi
nghề…
Ông Bình đi trong mộng mị, nắng trưa gay gắt
hình như cũng dịu đi, theo dòng suy tưởng của ông.
Qua Thanh Quýt, ông nhớ những người bạn
cũ, kẻ còn người mất.
“Thanh
Quýt là một làng cổ ra đời vào thời Huyền Trân công chúa sang làm dâu Chiêm
quốc năm 1306. Từ 1402 khi Hồ Hán Thương cử Phạm Nhữ Dực vào làm Chánh Đô án
phủ sứ phủ Thăng Hoa khai khẩn vùng đất mới. Thủy tổ của 7 tộc họ lớn của làng:
Nguyễn Hữu, Lê Tự, Trương Công, Nguyễn Văn, Nguyễn Bá… đều là các quan đại thần
theo Lê Thánh Tông trong cuộc bình Chiêm năm 1471, sau đó ở lại trấn nhậm vùng
đất mới, lập nên làng Thanh Quýt.
Dương
Văn An trong “Ô châu cận lục” đã cho biết Thanh Quýt là một trong 66 làng của
huyện Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong với tên gọi là Kim Quất. Đến Lê Quý Đôn
trong “Phủ biên tạp lục” viết năm 1776 thì Thanh Quýt có tên là Thanh Quất, một
trong 18 làng thuộc huyện Lễ Dương, phủ Thăng Hoa”…
Đô trị bình Chiêm Lê Tự Cường sau thời
gian phò vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm thắng lợi đã có công khai khẩn xứ Bàn
Tràm, làng Thanh Quýt thuộc xã Điện Thắng ngày nay)
(Nguồn:
http://baoquangnam.vn/van-hoa-van-nghe/)
…….
– Gặp anh hùng xin hỏi anh hùng
Cầu chi đi mười hai tháng phân cho cùng thiếp nghe?
– Kim Liên, Thủy Tú, Vĩnh Điện cho chí Câu Lâu
Quảng Nam ta có mấy cái cầu dài thay!
Chỉ đi chưa tới nửa ngày
Lẽ mô có lẽ đi rày một năm?
Bạn hỏi ta, nghĩ lại cũng nhằm
Cầu chi đi mười hai tháng? Có cầu Giáp Năm đó bạn tề!
Cầu chi đi mười hai tháng phân cho cùng thiếp nghe?
– Kim Liên, Thủy Tú, Vĩnh Điện cho chí Câu Lâu
Quảng Nam ta có mấy cái cầu dài thay!
Chỉ đi chưa tới nửa ngày
Lẽ mô có lẽ đi rày một năm?
Bạn hỏi ta, nghĩ lại cũng nhằm
Cầu chi đi mười hai tháng? Có cầu Giáp Năm đó bạn tề!
(Ca dao)
Ông Bình dừng chân, nhìn về cánh đồng làng Phong Ngũ, những gốc rạ sau
mùa gặt vàng hoe, xơ xác. Cổng đình làng Phong Lục rêu phong, những người bạn
họ Đỗ còn đâu đó, Đỗ Diện còm cỏi trên chiếc xe đạp một thời trơ khung, chân
đất. Lăn theo dòng đời, lưu lạc…
Đến làng Phong Nhị, nhớ ngôi nhà chênh vênh trên gò đất, giữa đồng của
Nguyễn Chung (nhà thơ Nguyễn Hàn Chung).
Phong Nhứt của Thân Tám (Thân Hùng – đã
mất). Làng Đông Hồ với Dương Thanh Thu (Thu
Dèo), nay khốn khó ngồi vá xe bên đường, mịt mù khói bụi. Cầu Giáp Ba rẽ
trái đến nhà Nguyễn Đình Ký, nhà thơ lặng thầm bên dòng sông lấp, bây giờ đã
nặng tai. Làng Ngọc Tam, Ngọc Tứ giáp Hạ Nông, quê ông…
Ông Bình lặng người nhìn dòng sông Vĩnh Điện lững lờ trôi, bóng mây chìm
nổi ẩn hiện bóng dáng tuổi thơ ông, bạn bè ông dưới mái trường trung học Nguyễn
Duy Hiệu ngày nào.
Vĩnh Điện, chính nơi này. Nhiều nhà thơ, nhạc
sĩ nổi tiếng một thời như nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, La Hối, nhà thơ Luân Hoán,
Hoàng Lộc, Phan Duy Nhân, Vương Thanh, Đynh Trầm Ca, Phạm Ngọc Lư, Mang Viên
Long, Vũ Hữu Định, Đoàn Huy Giao, Nguyễn Hàn Chung… đã từng được sinh ra hoặc đến
dạy học hoặc là điểm dừng chân giữa đường cũng là nơi cư ngụ, sáng tác của hàng
chục người cầm bút lúc mười tám, đôi mươi... Trên các tạp chí văn nghệ nổi tiếng
của Sài gòn như Văn, Sáng Tạo, Văn học, Đối Diện, Khởi Hành, Ý Thức… đều có
đăng sáng tác.
Thôn Bồng Lai, làng La
Qua (Điện Minh, Điện Bàn), nơi có dòng họ Nguyễn Nho tài hoa: Các nhà thơ Nguyễn Nho Sa Mạc (Nguyễn Nho Bửu
1944-1964), Nguyễn Nho Nhượn, Nguyễn Nho Khiêm…
Vườn mai dưới nắng xuân vàng rực của nhà Phạm Văn Đức, cô bé Nguyễn Thị
D. tung tăng sớm tối đi về. Ông Bình nhớ thời ngớ ngẫn đạp xe băng băng đến con
đường nhỏ có hàng cau cao vút, ngôi nhà ngói cổ kính thâm nâu. Lặng lẽ nhìn,
rồi lặng lẽ quay về.
“Rằng xa, ngoài ngõ cũng xa
Rằng gần Vĩnh Điện, La Qua cũng gần”(ca dao)
Bãi biển Hà My - Điện Dương, Điện Phương nổi
tiếng các làng nghề truyền thống như đúc đồng, gốm, gỗ mỹ nghệ, dệt chiếu, mỳ
Quảng Phú Chiêm, bê thui Cầu Mống, khu du lịch Bồ Bồ....
Giữa hai sông Vĩnh Điện
và Thu Bồn, từng là thủ phủ của Quảng Nam xưa. Dinh trấn Thanh Chiêm thời chúa
Nguyễn (1558 - 1775) và thành tỉnh Quảng Nam thời nhà Nguyễn (1802 - 1945),
thương cảng Hội An sầm uất và những làng nghề nổi tiếng như đúc đồng - Phước
Kiều, mộc - Kim Bồng…
Ông Bình thẩn thờ quay ngược xe. Qua khỏi cầu Vĩnh Điện, rẽ trái về quê
ông. Đối diện cổng trường Nguyễn Duy Hiệu, ngày xưa là cánh đồng Điện An, ruộng
lúa xanh ngát, nay đã thành chợ mới Vĩnh Điện. Lồng chợ hai tầng nguy nga, đầy
ắp hàng hoá, những con đường nhựa thẳng tắp như phố thị, nhà của chị em Trần
Thị… chỉ còn lưu dấu mái tole cũ kỹ, bị che khuất bởi những nhà cao tầng, mất
dấu chân người khi đô thị hoá.
Trường bán công Nguyễn
Duy Hiệu được thành lập từ năm 1958, thầy Hồ Đài hiệu trưởng, thầy Lê Văn Đa
giám
học. Ngôi trường trung học đầu tiên ở thị trấn Vĩnh Điện, huyện
lỵ Điện Bàn. Như GSTS Trần Văn Thọ đã một lần tâm sự: “Nếu không có trường Nguyễn Duy Hiệu, thế hệ chúng tôi sẽ thất học, đa số
con nhà nghèo không thể đi xuống Hội An hay ra Đà Nẵng trọ học…”.
Ngôi trường chỉ có bốn
lớp Thất, Lục, Ngũ, Tứ nhưng đã quy tụ nhiều thầy cô có tấm lòng nhân hậu và mô
phạm. Đến bây giờ mỗi lần nhắc đến, ông vẫn một lòng kính mến và trân trọng: Thầy
Nguyễn Phú Long (nhà thơ Hoàng Thị Bích
Ni - Dịch giả Nguyễn Kim Phượng), thầy Phan Chánh Dinh (nhà thơ Phan Duy Nhân), cô Dương Thị
Ngân Hà (Phu nhân thầy Phan Chánh Dinh)
dạy văn, thầy Trần Văn Tường, thầy Võ Toàn Trung dạy toán lý hóa, thầy (nhạc sĩ) Lê Trọng Nguyễn dạy âm nhạc, cô
Bích Ngọc dạy sử địa, thầy (nhà văn)
Vương Thanh, sau này có thầy (nhà thơ)
Hoàng Lộc…
Cuối năm, trường công
lập Điện Bàn thành lập (1962) do thầy Dung làm hiệu trưởng. Cha muốn ông thi
vào trường công nhưng cả cha và cậu Đa không yên lòng, nên sắp xếp cho anh Tâm
(Thùy) – đã học đệ Ngũ – thi thế. Kết quả không thấy tên!
Năm Đệ Thất (1962 – 1963) thật nhiều kỷ niệm. Lớp Anh văn khoảng hơn bốn
mươi đứa, cả gái lẫn trai. Số bạn ông còn nhớ như Nguyễn Đình Ký, Đỗ Diện,
Phạm Văn Đức, Lê vĩnh Hoè, Phạm Phú Cừ, Khúc Thừa Thế, Nguyễn Văn Diên, Lê Viết
Hoàng, Hồ Nên, Lê Tự Mộng, Lê Tự Trập, Nguyễn Văn Rô (mất 2013), Lê Tự Thắng,
Lê Tự Mầu, Nguyễn Trần Thị Xuân Bạch Tuyết, Lê Thị Liễu, Nguyễn Thị Hường, Nguyễn
Chung (nhà thơ Nguyễn Hàn Chung),
Trương Văn Chức, Lê Thị Phước, Nguyễn Thị Diêu, Trần Thị Cương, Nguyễn Thị Mười
(Dung), Lê Bá Đại, Trần Lý, Nguyễn Thị Dơi, Phan Tấn Ngọc (Phan
Thanh Dũng), Phan Xuân Dũng, Dương Dèo (Dương Thanh Thu), Nguyễn Văn Tục, Trần
Thị Thôi, Phan Đức Liên, Nguyến Tám (Hội), Nguyễn Văn Cúc A, Thân Tám,
Cù Tân, Thân An, Lê Minh Tá…
Năm Đệ Lục có Phan Thị Tuyết Hoa, cô bé xinh
xinh, con gái làng Bảo An. Có lẽ con cháu cụ Phan Khôi!?
Cuối năm làm bích báo, Nguyễn Hàn Chung,
Nguyễn Văn Diên, Nguyễn Đình Ký và ông gom bài của các bạn, chọn bài, trang
trí. Có mấy bạn “đạo” thơ văn, dù lúc
đó không biết của ai nhưng rõ ràng không phải của… hắn !
Cô Ngân Hà đọc bài thơ : “An Ký Chung
Mầu Tá Dục Sinh – Châu Diên Diêu Dũng Tuyết, Hoa, Anh …” Cô bảo:
Bình làm thơ ghép tên các bạn hay quá! Ông còn định cóp cả thơ Hàn Mặc Tử, Bích
Khê nhưng sợ cô biết, nên thôi…
Ông thích thơ Bích Khê, Đinh Hùng, Hàn Mặc
Tử, Vũ Hoàng Chương…Trong thời gian này, thầy cô khuyến khích đọc các tác phẩm
của Tự Lực Văn Đoàn. Diên cho ông mượn
cuốn “Bên Dòng Sông Trẹm” của Dương
Hà. Thầy Phan Chánh Dinh ra đề: Anh chị hãy viết tiếp truyện “Anh
phải sống” của Khái Hưng. Ông bê nguyên cả đoạn kết vào bài văn, ông
cho Cái Nhớn đi theo dòng nước lũ sông Hồng:“… Mưa vẫn to gió vẫn lớn, mọi
người âm thầm rảo bước để tiễn đưa Cái Nhớn về nơi an nghỉ… nghìn đời“ Thầy
Phan Chánh Dinh lấy bút đỏ khoanh tròn!
Trưa học về, đạp xe qua tiệm sách Thời Nay bên kia cầu Vĩnh Điện, ông mua
giấy pơ-luya hồng, mượn thơ Hàn Mặc Tử viết lưu bút cho bạn gái :
“Chữa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn anh theo dõi bóng em đi
Hồn anh sẽ nhập trong
luồng gió
Lưu luyến bên em chẳng
nói gì…”
Ai cũng nói ông có khiếu văn chương!
Thầy
Phan Chánh Dinh (Nhà thơ Phan Duy Nhân) trích giảng bài học đầu
tiên :
“Này gã trai
tơ, sách chật năm ngăn, mộng ứ rương hòm, tôi xin giao lại cái giang sơn thơ mộng
cho người. Mà gọi làm chi khác tình vậy nhỉ! Ở trong tuổi đẹp, chúng ta để là bầu
bạn: giang sơn tuổi nhỏ, này anh giao lại cho em.
Hai tay em đang đầy hoa lộc của đời, những hoa lộc phong
một lớp sương mờ, như một trái quà phong màng giấy xanh. Em mở ra cho trân trọng!
Em có mười sáu tuổi chỉ một lần, em không có đến hai lần cái tuổi hai mươi, em
chẳng bao giờ có lại tuổi mười tám. Em chỉ có một tuổi vui, em sẽ có một trăm
năm buồn; tất cả đều tùy em đó, xấu đẹp ở tại lòng em.
…………
Em mười lăm tuổi, em tuổi hai mươi! đừng để mất một cái gì mà không hưởng. Em tưởng sau này em lớn, đi chơi bời mà là hưởng sao? Những cái ấy để cho bọn giác quan què quặt, tâm trí ngu đần, ta, thiếu niên, có thể không mất một xu mà hưởng hết của trời. " Say là say nghĩa, say nhơn, say chung Lý Bạch, say đờn Bá Nha " chứ há có say cái thứ rượu tồi mạt của Lưu Linh!”
Em mười lăm tuổi, em tuổi hai mươi! đừng để mất một cái gì mà không hưởng. Em tưởng sau này em lớn, đi chơi bời mà là hưởng sao? Những cái ấy để cho bọn giác quan què quặt, tâm trí ngu đần, ta, thiếu niên, có thể không mất một xu mà hưởng hết của trời. " Say là say nghĩa, say nhơn, say chung Lý Bạch, say đờn Bá Nha " chứ há có say cái thứ rượu tồi mạt của Lưu Linh!”
………….
(Xuân Diệu – Giao lại)
(Xuân Diệu – Giao lại)
Quê ông nghèo, đa số đi học chân không
dép, chạy vội về nhà sau giờ tan học. Con trâu, cái cuốc, cái liềm chờ sẵn
trong sân. Chỉ có ông Giang Nam mới nghĩ
“Ai bảo chăn trâu là khổ”. Chiều
mùa đông rét mướt, chiếc tơi lá không che đủ hai tay. Không ai giao lại tuổi thơ ông, tiếng ùng oàng
từ Bà Nà, núi Chúa vọng về, dòng sông Vĩnh Điện đục ngầu bồng bềnh những thân
người bị trói ké, úp mặt trôi theo dòng sông ra biển. Tuổi thơ ông nhiều bạn vắng
dần, ra đi khi chưa đủ lớn, rồi đi mãi không về.
“Ông
tha mà bà chẳng tha, hành cho cái lụt hăm ba tháng mười”.
Bão Hagupit tàn phá gãy đổ cây đa đầu làng, xiêu vẹo nhà tranh vách đất, chưa kịp
chống lại, trận lụt năm Giáp Thìn 1964 cuốn phăng đi. Con sáo yêu thương chết
cóng tự lúc nào đưa hai chân co quắp lên trời. Tuổi thơ ông trôi theo dòng lũ dữ.
Không ai giao lại tuổi thơ cho ông, chênh vênh giữa hai bờ…
Rồi một
ngày, con đường nhựa quê ông bị băm nát, nham nhở. Những buổi chiều ngóng về
như xa xôi ngàn dặm, chỉ còn được nhìn theo những áng mây bay. Nhà ông đâu có “khuất bóng hoàng hôn” mà nghe chừng như
“trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”.
Lễ Phật đản 1963, chùa Hạ Nông không một
bóng cờ. Bác Xứng tụng kinh cầu an, cầu siêu.
Dần – anh em chú bác với ông, rủ về quê ăn
khoai lang nướng, mẹ nó mới đào. Hai đứa đạp xe qua khỏi tháp Bằng An, gần đến
ngõ Nghè Mai - Chánh Chước đã nghe rộ tiếng súng. Mấy người gánh lá dâu băng
qua đường chạy về hướng thôn Nông Sơn… Dần nói đó là quân Giải Phóng.
Những ngày mùa đông buồn da diết, tan trường
Thân Tám (Thân Hùng – đã mất 2009)
kéo nhau qua bến xe Vĩnh Điện coi xác Việt Cộng mới bị bắn chết. Bỗng nó khóc
oà, nói chú nó! Không khí chiến tranh tràn vào lớp học, Dần, Bảy, Diên theo anh
Đông làm du kích, lớp học thưa dần…
Thầy Phan Chánh Dinh (Phan Duy Nhân) dạy bài cuối cùng, bài thơ: “Nhà tôi” của Yên Thao:
Tôi đứng bên này
sông
Bên kia vùng giặc
đóng
Làng tôi đấy, sạm
đen màu tiết đọng
Tre, cau buồn rũ
ướt mưa sương
Màu trắng vôi
lôm lốp mấy khung tường
Nếp đình xưa người
hỡi, đau gì không ?
……….
Quê ông chìm trong khói lữa, máy bay ném
bom tan tành ba cây đa cổ thụ. Cô dượng Ngũ ra đồng, cà nông rơi trúng hầm, xác
bốn đứa con không đứa nào còn nguyên vẹn.
Trời chưa hừng sáng, quân Giải phóng về
làng tử hình thôn trưởng Nông Sơn, bắn thêm người em từ ngoài đồng chạy về.
Chùa Hạ Nông vắng dần thiện nam tín nữ, bác Xứng vẫn chiều chiều dộng chuông
thinh không vang vọng cõi trần ai…
Những buổi chiều tan học sân trường vắng
hoe. Thỉnh thoảng cô bạn học P.T.T.H xinh xinh, trọ bên kia đường, mang áo quần
xuống giặt ở bến sông trước nhà trọ. Lòng ông buâng khuâng, mong đợi, không nói
nên lời…




Đầu đường ĐT609, hướng về Ái Nghĩa. Quán cơm, mì Quảng cô Tám ngày xưa,
nay đã chuyển giao cho con gái út, bán bún bò Huế. Học xa nhà, ông Bình được mẹ
gói cơm lá chuối với cá rô đồng kho mặn hoặc muối mè, đậu phụng ăn trưa. Thỉnh
thoảng ông được cùng cậu Lê Văn Đa – Giám thị trường Nguyễn Duy Hiệu, thầy Trần
Văn Tường, thầy Phan Chánh Dinh, Cô Dương Thị Ngân Hà, thầy Vương Thanh… dùng
cơm trưa quán cô Tám.
Ông Bình dừng lại - Bến Đá. Ngày ấy, những chiếc ghe thương hồ ngược
xuôi, mỏi chân neo đậu nơi này. Tan học, ông cùng Nguyễn Văn Diên (đã mất), Nguyễn
Văn Dần (Liệt sĩ), Lê Viết Nem (Hoàng), Phạm Phú Cừ, Khúc Thừa Thế… cởi truồng
tắm sông, ngụp lặn có lần suýt chết dưới đáy ghe. Nhà Phan Xuân Dũng đây rồi,
nhà trọ của Phan Thị… chỉ còn “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch
dương”
(Thăng Long thành hoài cổ - Bà Huyện Thanh Quan).
Ngang Tháp cổ Bằng An, tháp
Chăm duy nhất còn lại hình bát giác, tháp có hình
Linga tượng trưng cho thần Shiva – một trong những hình ảnh thiêng liêng nhất của
mặt trời, theo quan niệm của người Chăm-pa. Trước cửa có tượng hai con thú, gọi
là Gajasimha, hình nửa như sư tử nhưng lại có vòi ngắn quay lên trên, mỗi con đều
có cái diềm đeo cổ. Như các tháp Chăm khác, tháp Bằng An cũng quay cửa về hướng
Đông để đón ánh mặt trời.
Tháp trầm mặc u buồn. Nhìn khung cảnh nhếch
nhác tưởng chừng như hoang phế, ông chạnh lòng nhớ về Công chúa Huyền Trân…
“Tiếc thay cây quế giữa rừng/ Để cho thằng Mán
thằng Mường nó leo” (ca dao)
“Năm 1301,Thái thượng hoàng
Trần Nhân Tông được Quốc vương Chiêm Thành là Chế
Mân mời vào thăm và tiếp đãi nồng
hậu. Khi ra về, Thái thượng hoàng có hứa gả con gái cho Chế Mân, mặc dù khi đó
Chế Mân đã có chính thất là Vương
hậu Tapasi, người Java (Indonesia ngày
nay). Sau đó nhiều lần, Chế Mân cử sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng nhiều quan
lại nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc vương Trần
Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ
trương tán thành.
Năm Bính Ngọ, Hưng Long năm
thứ 14 (1306), tháng 6, Chúa Chiêm Thành
là Chế Mân dâng hai châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) làm hồi môn, vua Trần Anh Tông
khi đó mới đồng ý gả Công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Công chúa khi về Chiêm
Thành, được phong làm Vương hậu thứ 2 với phong hiệu là Paramecvari.
Tháng 5,
năm Đinh Mùi (1307), quốc vương Chế Mân băng hà. Thế tử Chế Đa Da sai sứ
thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng và báo tang.
Theo Đại
Việt sử ký chép lại, Trần Anh Tông nghe rằng: Theo tục nước Chiêm, Quốc vương chết thì
Vương hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn
tang. Trần Anh Tông liền cử Hành
khiển Trần Khắc Chung sang viếng tang và tìm cách cứu công chúa. Trần
Khắc Chung cứu được công chúa và đưa xuống thuyền. Cuộc hải hành kéo dài tới
một năm và theo Đại Việt sử ký toàn thư thì Trần
Khắc Chung đã tư thông với công
chúa”.
Sau khi
công chúa Huyền Trân trở về Thăng
Long, theo di mệnh của Thái Thượng hoàng,
bà xuất gia ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc
Ninh). Công chúa thọ Bồ tát giới và được
ban pháp danh Hương Tràng.
Cuối
năm Tân Hợi (1311), Hương Tràng cùng một thị nữ đã quy y đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản
(nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau đó, am
tranh trở thành điện Phật, tức chùa
Nộm Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự.
Bà mất ngày
mồng 9 tháng giêng năm Canh Thìn (1340). Dân chúng quanh vùng thương tiếc và tôn bà là Thần
Mẫu và lập đền thờ cạnh chùa Nộm Sơn. Nhớ ngày công chúa mất, hàng năm
trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong ở Huế.
Các triều
đại sau đều sắc phong công chúa Huyền Trân là thần hộ quốc. Nhà Nguyễn ban chiếu
ghi nhận công lao của công chúa Huyền Trân "trong việc giữ nước giúp dân,
có nhiều linh ứng", nâng bậc tăng là "Trai
Tĩnh Trung Đẳng Thần".
(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/)
Ông Bình nhìn về phía đối diện tháp Bằng An, ngôi trường tiểu học Vĩnh
Hoà (Điện An) năm xưa, nay là trường Phan Thành Tài bề thế.
Ông Bình sực nhớ chuyện ông làm chủ hôn “chạy làng” năm 1979. Trong một lần chú D. chở khung xe đạp
đi sơn ở Vĩnh Điện gặp cô Tr. Cô Tr. gái thành phố, theo cha mẹ về quê. Cô dạy
tại trường tiểu học Điện An (nay là trường Phan Thành Tài), không biết chú D.
tán tỉnh thế nào, hôm sau cô đạp xe mini lên nhờ chú D. sửa giúp. Họ đã bén
duyên nhau, nhưng mẹ chú D. không tán thành!
Họ tự tổ chức thành hôn, trên sân trường
tiểu học này. Mùa hè vắng hoe, bên nhà gái không người thân. Những thầy cô giáo
đồng nghiệp phụ giúp, trang điểm cô dâu bằng màu son hoa phượng. Thầy hiệu trưởng
Th. tuyên bố lý do, ánh mắt yêu thương nồng cháy của tân lang và tân giai nhân
lấp lánh, hạnh phúc và làm dịu mát những tia nắng của buổi trưa hè.
Ông Bình đại diện nhà trai, chuẩn bị đáp từ.
Bỗng mẹ chú D. xuất hiện bất ngờ, chiếc gậy trong tay bà kéo phăng tấm biển chữ
“Tân hôn”, đêm qua ông Bình cắt vội.
Thế là tan, ông Bình ôm bà mẹ, chú D. không thấy đâu. Thầy cô giáo hoảng hốt
khi phát hiện chú D. định treo cổ trong phòng học… Nhưng bây giờ, cô chú đã vượt
qua bao nhiêu phong ba bão táp, con cháu đề huề.
Vòng bánh xe quay, đưa ông Bình đi theo
hoài niệm. Đây rồi cống Cửu Duật, khi nước băng đường cái trong mùa mưa lụt là
những ngày nghỉ học. Hương sen thơm ngát, chạy dài về phía xứ Miên La, Đồng Thộn
thuộc làng Bất Nhị, ra sông Thu Bồn.
“Sông Thu Bồn xuôi về Cửa Đại/ lạch Bình Long chảy mãi ra
Hàn…”. Từ đây về quê ông, con đường quốc lộ cong cong
hình chữ S. Ngõ Nghè Mai, Chánh Chước vào làng Hạ Nông…
Nhà Nội ông Bình – Thầy Kiều - ở Nga
Tiền, thôn Hạ Nông Dưới (Hạ Nông Trung),
Kỳ Ngọc (Điện Phước), Điện Bàn, Quảng
Nam. Ngôi nhà mái ngói cổ kính, bên cạnh chùa Hạ Nông.
Nhìn về hướng nam, những hàng tre làng Bất Nhị như bờ viền xanh ngát
cánh đồng lúa Nga Tiền.
Nội ông Bình là cụ đồ nho học kiêm thầy địa lý. Những môn sinh của nội
thất cơ, lỡ vận vào thời tây học như bác ông Bình, thí phát quy y trở thành
thầy tu, trụ trì chùa Hạ Nông.
Thời kháng chiến chống Pháp, chùa Hạ Nông bị hủy hoại, tan nát. Chỉ còn
giữ được đại hồng chung bằng đồng to lớn, hoa văn rất đẹp. Hai con rồng cuộn
mình như đuổi bắt, tạo thành đai. Chuông được các nghệ nhân Làng đúc Phước Kiều
(thôn Thanh Chiêm, xã Điện Phương, Điện Bàn, Quảng Nam) đúc từ thời Minh Mạng
(1820-1841)
Làng nghề đúc đồng Phước Kiều, có lịch sử hình thành từ khi Dinh trấn Quảng Nam, dưới thời Chúa Nguyễn Hoàng, đầu thế kỷ 17, tồn tại và phát triển hơn 400 năm qua.
Làng nghề đúc đồng Phước Kiều, có lịch sử hình thành từ khi Dinh trấn Quảng Nam, dưới thời Chúa Nguyễn Hoàng, đầu thế kỷ 17, tồn tại và phát triển hơn 400 năm qua.
Dưới thời chúa Nguyễn và triều Nguyễn, những nghệ nhân của làng nghề
được triều đình gọi ra Phú Xuân tham gia đúc đỉnh, vạc, súng và cả ấn tín.
Nghe nói tiếng chuông vang rất xa, đến Hàn (Đà Nẵng) còn vọng thanh
âm. Bác ông Bình hiệu Thích Như Viên, pháp tự Giải Phương, tục danh Nguyễn
Văn Đảnh. Lâm tế chánh tông, tứ thập nhất thế, thuộc Tổ đình Chúc Thánh, Hội
An.
Chùa Hạ Nông được trùng tu, do cha cúng dường
tam bảo. Ngày khánh thành (Rằm tháng Tư -
1962), ông cùng anh Ngộ, Dần theo đoàn Phật tử chạy tung tăng. Mẹ nấu cơm
chay, thiện nam tín nữ thọ trai, ai cũng khen. Nồi chay có khoai lang, mít chín
cả xơ lẫn múi, đậu xanh, đậu phụng tươi giả nát, rau sống thơm nồng…
Hậu bán thế kỷ 15, làng quê ông Bình đã có tên. Chùa Hạ Nông được hình
thành gần 300 năm, nhưng nay chỉ còn là phế tích. Cách chùa khoảng 100m, chênh
chếch huớng tây-nam có gò Phật và cây thiên tuế cổ thụ, đây là nơi lưu giữ các
tượng Phật và những gì còn sót lại của chùa. Xa xa về hướng nghĩa địa Gò Bướm,
mộ ông Nghè Trần Quý Cáp (1870-1908) với tháp nhọn lẽ loi, nằm chung với dân
làng đã quá vãng.
Sau hiệp định Genève nội mất, cha ông Bình cùng dân làng trùng tu chùa
Hạ Nông (1961). Ngày lễ Phật Đản năm 1962, dù còn nhỏ, nhưng ông không thể nào
quên, các thầy về dự lễ khánh thành có Hòa
Thượng Thích Thiện Quả, trụ trì Tổ đình Chúc Thánh, Hoà thượng Thích Trí
Quang, Hoà Thượng Thích Như Huệ (Hòa Thượng thế
danh là Phạm Kim Huệ, sinh năm Giáp Tuất, ngày 02-4-1934 tại làng Cẩm Phô, Điện
Bàn, Quảng Nam. Đã thuận thế vô thường thâu thần an nhiên thị tịch vào lúc 9
giờ 25 tối ngày 23/06/2016 - nhằm ngày 19/5/Bính Thân tại Tổ Đình Pháp Hoa Nam
Úc. Thọ thế: 83 tuổi, 60 Hạ lạp).
Năm 1965, quê hương chìm trong khói lửa.
Chùa Hạ Nông vắng dần thiện nam tín nữ. Đạn bom cày xới tan tành ngôi chùa cùng
ba cây đa cổ thụ. Chỉ còn trơ lại gác chuông. Bác ông vẫn chiều chiều dộng
chuông thinh không, vang vọng cõi trần ai.
…………..
Xã Điện Phước phía
Bắc giáp xã Điện Hòa, phía tây giáp Điện Thọ, phía Đông giáp Điện An, phía Nam
giáp sông Thu Bồn. Rạch Bình Long nối dòng sông Thu Bồn
băng qua làng, xuôi về sông Hàn, Đà Nẵng. Điện Phước là xã thuần
nông, đồng bằng màu mỡ, nhờ phù sa của Sông Thu Bồn. Sông Thu Bồn bắt nguồn từ
khối núi Ngọc Linh thuộc
huyện Đăk Glei, tỉnh Kon
Tum và đổ ra biển tại cửa Đại, thành phố Hội
An. Một nhánh chảy vào sông
Vĩnh Điện, đổ vào sông
Hàn, Đà Nẵng. Trước khi đổ ra biển tại cửa
Đại, một phần nước của sông chảy vào sông Trường Giang, đổ ra vịnh An Hòa Tam
Quang, huyện Núi Thành. Sông Thu Bồn
cùng với sông Vu Gia, hợp lưu tại Giao Thuỷ
- Đại Lộc, tạo thành hệ thống sông lớn có vai trò rất quan trọng đối với đời sống
và tâm hồn người dân xứ Quảng.
Ngày xưa…
“…..có 24 tên làng thuộc huyện Điện Bàn hiện
tại: làng Đắc Ký, Hoa Thử (Phong Thử), Kỳ Lam, Giáng La thuộc xã Điện Thọ hiện
nay; làng Nông Sơn, Bất Nhị, Hà Khúc (Hà Nông) thuộc xã Điện Phước, làng Đông Bàn
thuộc xã Điện Trung, làng Đa Thử (Đa Hòa) Cẩm Đăng (Cẩm Văn), Giáo Ái thuộc xã
Điện Hồng, làng Lỗi Sơn (Cẩm Sơn), Diễm Sơn thuộc xã Điện Tiến, làng Hoa Hồ
(Đông Hồ), Bích Trâm thuộc xã Điện Hòa, làng Lai Nghi, Phong Hồ, Kim Sa (Cẩm
Sa); làng Thị Lại (Thi Lai), Kim Lữ (Cẩm Lậu) thuộc xã Điện Phong; làng Nhân
Triêm (Phú Triêm) thuộc xã Điện Phương, làng Uất Lũy, Cúc Lũy (Khúc Lũy) thuộc
thị trấn Vĩnh Điện và xã Điện Minh, làng Kim Quất (Thanh Quýt) thuộc xã Điện Thắng.
……
Lê Viết Bang, theo phò
vua vào Nam chinh chiến, sau 1471 được vua Lê sai phái ở lại vùng đất Chiêm Động,
có công khai khẩn đất hoang, qui dân lập ấp, lập nên làng Bằng An, nay thuộc xã
Điện An.
…….
Có rất nhiều dòng Lê Tộc
từ Thanh Hóa vào định cư tại đất Điện Bàn như Lê Tấn Viễn định cư tại Điện
Dương, Lê Cao Xảo tại Điện Phước, Lê Viết Bảo tại Điện Nam, Lê Đường, Lê Tấn tại
Điện Hồng, Lê Văn Đạo tại Đông Bàn, Lê Đắc Sùng tại Giáo Ái, Túy La (Điện Hồng),
Lê Đắc Vinh tại Điện Hồng...
……….
Trong tập san nghiên cứu lịch sử số 5 –
1993 của Viện Sử học Việt Nam có công bố một tài liệu gọi là “Bắc địa
tấu từ” (bài tấu tâu về đất Bắc). Bài từ được viết ngày 12 – 6-1492 (năm Nhâm
Tý Hồng Đức thứ 23) này là của 24 dòng họ từ các tỉnh phía Bắc, Cao Bằng, Nghệ
An, Thanh Hóa, Hà Tỉnh, Hải Dương vào khai phá vùng Bắc sông Thu Bồn. Trong số
đó có các dòng họ Phan, Hà, Trần, Thân, Nguyễn, Tào, Ngô, Đỗ, Đoàn, Đinh, Trịnh,
Mai, Huỳnh, Từ, Mạc, Lê... Bài từ có nói đến các tên làng Nông Sơn, Hạ Nông,
Châu Lâu, Đắc Ký...
………..
“Theo bước chân của vua Lê Thánh Tông đi mở cõi, các bậc
tiền nhân đặt chân vào Điện Bàn, xứ Quảng, rồi khẩn hoang, lập làng lập xã. Hạ
Nông xã, Câu Nhí xã, Châu Minh xã, Mỹ Á xã… những cái tên xưa cũ đã từng lưu
dấu trong “Bắc địa tấu từ”. Và trong “Ô Châu cận lục” của Dương Văn An biên
soạn năm 1553, các làng của Hạ Nông xưa, Điện Phước nay, đã được xác lập như
Nông Sơn, Minh Châu, Bất Nhị…
Những địa danh quê ông đã đi vào thi ca và lịch sử: Bất Nhị, Bình Long,
Hạ Nông, Nông Sơn, nghĩa là không thể có
hai:“Bồng em mà bỏ vô nôi/ Để mẹ đi chợ
mua vôi ăn trầu/ Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu/ Mua cau Bất Nhị, mua trầu Hội An”, “Sông Thu Bồn xuôi về Cửa Đại/ Lạch
Bình Long chảy mãi ra Hàn…”,
Theo đường Quốc lộ Bắc-Nam, đến gần cầu Vĩnh Điện rẽ theo tỉnh lộ ĐT 605 - nay mang tên nhà chí
sĩ Trần Quý Cáp hoặc cách trường PTTH Nguyễn Duy Hiệu khoảng hơn 300m gặp con
đường lớn, tráng nhựa phẳng lì mới mở: Nguyễn Thành Ý…
Chỉ có hơn 11
cây số vuông, nhưng Điện Phước quần tụ đến 12 ngôi làng cổ, 50 tộc họ. Xã được
thành lập vào tháng 11.1948, trên cơ sở hợp nhất 4 xã Quý Cáp, Hiệp Lực, Nông
Chánh, Liên Châu. Xã Quý Cáp hẳn là lấy tên của người chí sĩ sinh ra ở làng Bất
Nhị. Cụ Trần Quý Cáp (1870 – 1908) cùng Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, hợp
thành “bộ ba Quảng Nam” nổi tiếng, khởi xướng phong trào Duy tân
với triết lý “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh” còn giá trị đến vô bờ. Bên cạnh cụ Trần có cử nhân Mai Dị (1880-1928),
đỗ đạt nhưng không ra làm quan và lui về quê, cùng các nhà Duy tân mở trường
dạy học. Ông từng tham gia sáng lập và dạy học tại trường Diên Phong, bị giặc
Pháp nghi án và bắt bỏ tù trong phong trào Kháng thuế năm 1908. Ở Điện Phước
còn có tên tuổi vang danh là nhà ngoại giao Nguyễn Thành Ý. Cụ Thành Ý quê từ
Túy La qua cư trú tại Bất Nhị, là một trong “Ngũ tử đăng khoa” (5 anh em trong một nhà có 3 người đỗ tú
tài, 2 cử nhân). Cụ Nguyễn Thành Ý từng được vua Tự Đức cử làm Tổng lãnh sự tại
Sài Gòn - Gia Định”.
………
Nhà ông Chanh có Lê Viết Hoàng (Nem) học cùng lớp. Nhà bà ba Ra. Vườn
ông Cửu Tưởng hiu quạnh, vắng bóng người. Bà Mày có Nguyên, nghèo nhất xóm. Bà
Tiếp có chị hai Tiếp, anh Xuyên, anh Đông. Nhà bà Nhì có anh Tam, Cật. Bà Mua
có anh Tám Dần, cùng tuổi với chú mười Thi. Chú Liếng có chị hai Liếng, chị Ba,
Bảy… Nhà chú ba Mậu. Bên kia, gần bờ đập,
ông Chánh Ba có chị Thông, anh Nga…
Bác Xứng có anh Tâm (Thuỳ), anh Ngộ, anh Hiệp và mấy chị. Chú Dần có em Dần cùng tuổi, Lại
(đã mất), Dân, Nhân, Giai… Sau này chú Dần làm nhà gần ông ba Mậu. Đi học
về, anh Ngộ, Dần cùng ông Bình, cởi áo quần nhảy tỏm xuống “đàng nước”(mương thuỷ lợi), nước trong veo. Chú Bề
“mân-te”(đưa nước vào ruộng), ôm gọn
áo quần đi thẳng. Anh Ngộ, Dần ngó theo la í ới.
Xóm Hạ-Nông-Dưới khoảng mươi nóc nhà, có đến
năm bà góa. Những người chồng đã hy sinh trong thời kỳ chống Pháp. Tây càn, ông
Nhì ôm súng leo lên cây đa, ông ra đi khi bà Nhì chưa đến ba mươi. Rồi những
năm sáu ba, sáu bốn, thế hệ tiếp nối như
anh Đông, Dần, Cật, Bảy lần lượt vào du kích và hy sinh…
Khi ông Bình được sinh
ra, ông bà nội đã mất. Bác ông theo nghề ông nội. Bác giỏi chữ nho, bác dạy tam
tự kinh cho lũ trẻ trong nhà:
“Nhân
chi sơ, Tính bản thiện,
Tính tương cận, Tập tương viễn.
Cẩu
bất giáo, Tính nãi thiên,
Giáo
chi đạo, Quí dĩ chuyên.”
Quê nội ông yên ả thanh bình nhất, có lẽ
sau hiệp định Genève 1954 đến cuối năm 1960! Đúng là thái bình thật, không trộm
cắp, những đêm hè cửa thường bỏ ngõ. Tiếng hò khoan trong mùa cấy tháng tám,
tháng ba thoang thoảng theo làn gió bay xa. Ngày xưa, cái thiếu đói thời kỳ giáp hạt, là nỗi ám ảnh
trong lòng người dân quê ông thường trực.
Rồi một ngày những người
không phải lính, nhưng mặc đồ màu đen mang súng, vào ở chung với dân làng…
“…Mùa
xuân năm 1962, chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành Quốc Sách Ấp Chiến Lược mục
tiêu căn bản là tách rời du kích, quân sự của Cộng Sản còn cài cắm ra khỏi nhân
dân nông thôn, không cho dựa vào nhân dân để xây dựng cơ sở hoạt động phá hoại,
cuối cùng là cô lập hoàn toàn phải ra hồi chánh hoặc bị tiêu dịêt…”
Nếu Quốc Sách này được tiếp tục và Ngô Đình Diệm không bị lật đổ, thì ngày
30.4.1975 có lẽ còn xa xăm…
Ngày
xưa làm ruộng chỉ có hai mùa: tháng ba, tháng tám. Mẹ ông quảy gánh sang tận
Đông Bàn (Gò Nổi), La Thọ mua sắn,
mua khoai, xắt lát phơi khô, độn cơm.
Những buổi chiều ông theo chú Mười (Thi)
đi câu cá thát lát ở “giếng” Thủ Bộ.
Gọi là “giếng” nhưng giống như hố
bom, sâu khoảng vài mét, đường kính hơn chục sải tay. Ông lội dọc theo triền nước,
xúc những con “mày mày” (ấu trùng chuồn chuồn) cho chú câu…
Có những hôm chú Mười câu được mười mấy
con cá to, óng ánh như dát bạc. Mẹ ông làm chả cá thát lát nấu canh với rau tần
ô ngọt lịm.
Mùa đông mưa
phùn gió bấc, bàu Súng – rất nhiều cây bông súng, hoa trắng viền tím ngát -
trắng xoá, nước mấp mé bờ đập thuỷ lợi. Ba ông đặt lờ, cá rô, cá diếc, cá tràu,
thác lác, cá trê béo ngậy. Nướng trên lò than, chấm nước mắm gừng hết chỗ chê!
Nồi cơm đất nung thơm lừng với chén mắm cá nục, cá cơm, dằm vào ớt tỏi ăn quên
thôi, quên mất phần người lớn!
“Ông
tha mà bà không tha/ Làm cho cái lụt hăm ba tháng mười”. Nhưng lụt mang phù
sa cho ruộng đồng phì nhiêu. Những gánh phân chuồng, phân xanh đã làm đượm tình
quê qua hương thơm ngạt ngào của hạt cơm lúa mới.
Lụt lớn, lụt nhỏ nước chảy tràn đồng là
những ngày hội hè của đám trẻ con, tất bật chạy đi đơm cá. Những bát cá mại, cá
cấn, đủ loại cá con, kho với lá gừng, lá nghệ vàng ươm ngon hết biết nhưng cơm
không đủ ăn! Kể cũng lạ, đất khô nứt nẻ, nhưng khi mưa xuống lại có cá, không
biết từ đâu?
Gần Tết, từ đầu tháng Chạp, bác ông đã cuốc
đất lên luống, gieo cải. Nhà nhà lo Tết, mẹ ông chuẩn bị sẳn không thiếu thứ
gì. Đưa ông Táo về trời, mẹ nhờ chú ba Diện quảy gánh nếp đi bung. Nấu nước đường
làm bánh hộc, bánh khô, bánh in, mứt dừa, mứt gừng, mứt bí đao… Chiều ba mươi
quanh bếp lửa hồng, nồi bánh tét sôi sùng sục, tiếng heo bị làm thịt kêu eng
éc…
Đêm giao thừa pháo nổ vang khắp làng trên
xóm dưới, rồi chìm vào hư không. Tiếng chuông chùa Hạ Nông ngân vang… Sự thiêng
liêng ngự trị trong lòng mỗi con người. Cầu mong mưa thuận gió hoà, quốc thái
dân an.
Người dân
quê ông bao đời vẫn sống chân chất, thanh lương. Miền trung đất hẹp, gánh nặng
hai đầu đất nước. Chỉ học theo gương người trước, cố dành khoa bảng, phụng sự
cho đời.
Ngũ Phụng
Tề Phi có nghĩa là năm con
phượng cùng bay lên là danh hiệu do vua Tự
Đức phong tặng cho năm vị đại
khoa cùng đỗ trong một khoa thi năm 1898,
và cùng thuộc tỉnh Quảng Nam, đó
là một điều hiếm có trong một tỉnh. Năm vị ấy là:
- Tiến sĩ Phạm Liệu (Trường
Giang, huyện Điện Bàn)
- Tiến sĩ Phan Quang
(Phúc Sơn, huyện Quế Sơn)
- Tiến sĩ Phạm Tuấn (Xuân Đài,
huyện Điện Bàn)
- Phó bảng Ngô Lý còn
gọi là Ngô Chuân (Cẩm Sa, huyện Điện Bàn)
- Phó bảng
Dương Hiển Tiến (Cẩm Lậu, huyện Điện Bàn)
Sau ngày ký Hiệp định Genève, cha
ông đưa gia đình về quê. Cha làm căn nhà ngói to nhất làng, toàn là danh mộc,
đúc bê-tông, nằm giữa chùa Hạ Nông và nhà bác Xứng.
Ông Bình được khai tâm “trường” thầy Tư Khải. Gọi là trường,
nhưng chỉ có hai dãy bàn bằng gỗ mít. Học trò lèo tèo năm bảy đứa, cả gái lẫn
trai…
Mẹ ông mua mấy cuốn vở, bình mực, bút lá
tre. Mực viên hoà với nước, mực xanh, mực tím. Thầy dạy vỡ lòng, “a,b,c…a,ă,â…
– nhân chi sơ tính bổn thiện…” Thầy dạy Tam tự kinh lẫn tiếng Pháp. Anh Tâm
(Thuỳ) học lớp nhì, dạy thêm:“ Ma mère – Mẹ tôi,
long – dài, mue – mềm”. Ông xung phong đọc cho thầy nghe, thầy quất mấy
cây roi quắn đít!
Đường làng trơn. Từ nhà đến trường ngang
qua vườn bà cửu Tưởng, không một bóng người, ông sợ ma, sợ chó điên. Mẹ dạy phải
bấm ngón chân khỏi ngã, đến sân nhà thầy ông
trượt chân nằm thẳng cẳng, con gái thầy bắt ông cởi truồng, dội nước. Ngồi
học không mặc quần.
Những ngày
thơ ấu, ngôi trường tiểu học Kỳ Ngọc gần nhà ông Đốc Thuyên (Trần Thuyên – con
trai duy nhất của cụ Trần Quý Cáp) do thầy Trợ Lập làm hiệu trưởng. Trường chỉ
có ba lớp: Cô Thu Cúc dạy lớp ba, thầy Hào dạy lớp nhì, thầy Phấn lớp nhất (NK
1960-1962).
Những đứa
học trò nhà quê chân đất đến trường cùng sách vở cong queo, sân trường không
bóng mát. Cả đám nép vội vào lề đường, khoanh tay cúi đầu chào khi nghe tiếng
xe mobilette của thầy Phấn sau lưng. Nhà thầy ở thị trấn Vĩnh Điện, gần ngã ba
đường xuống Hội An. Thầy cận thị nặng, những đứa hay nghịch ngợm giành nhau
ngồi cuối lớp, nghĩ rằng thầy không trông thấy mình.
Hơn năm mươi năm qua, những người bạn năm xưa, có bạn vẫn còn sống
ở quê nhà: Trần Hoài Thanh - lương y cứu giúp nhiều người, Đinh Thị Tân – cô
giáo đã hưu, Đỗ Cả… Đa số tha phương cầu thực và thành danh xứ người: Hồ Đắc
Anh – cựu hiệu trưởng trường cấp 3 Võ Trường Toản, Q.12, Đinh Văn Mười
(P.TGĐ.VCB), Lê Hồng Thái… hay những bạn đã giã từ cuộc sống bởi chiến tranh
huynh đệ tương tàn: Trần Văn Giáp, Nguyễn Văn Diên, Nguyễn Văn Bảy…
…………………..
Giòng
ký ức ùa về trong ông, ông
Bình học được nghề gò từ trại cải tạo. Công xá từ những chiếc thùng tưới, thùng
gánh nước, thay đáy thùng… Mỗi chiều về, cũng mua cho mẹ chút trầu cau, mua cho
con chút đường, thay sữa!
THÂN PHẬN
Mẹ tần tảo nuôi con
Đêm mưa và ngày nắng
Cằn cỗi cuộc đời nước mặn đồng chua
Quê ta nghèo mùa được mùa thua
Theo gió bão sớm dưa chiều muối
Tuổi tám mươi Mẹ chưa một lần tiếc nuối
Nuôi con khôn lớn những ngày
Gắng học nên người
Tạo dựng ngày mai
Thời của Mẹ qua rồi thời nô lệ
Đời ta nghèo, nhà ta bao thế hệ
Nước ta nghèo cần chất xám nơi con
Nhưng Mẹ ơi, con chờ đợi mỗi mòn
Xin làm những gì hợp với nghề con
Người ta bảo anh nên làm ruộng rẫy
Và con rất tự hào hăng say cày cấy
Cử nhân như con biết mấy vạn người
Đạp xe thồ, bốc vác chợ trời
Hay tay lấm chân bùn như con của Mẹ
Nên đàn em con
chẳng học hành ra lẽ
Vì tương lai không định hướng nên người
…….
Sau năm 1975, cha mẹ quy cố hương, cha mẹ
dường như đã già hơn mười tuổi. Cái nôi thời thơ ấu, gần như hoang phế bởi chiến
tranh, gạch vỡ vây quanh làm tường, mái tole cũ kỹ, tạm bợ. Cha ốm yếu, mẹ và vợ
ông không biết làm ruộng, hai con còn nhỏ…
Ông Bình đi trả công thay mẹ. Mẹ - con gái
thành phố, theo cha về làm ruộng, tất bật
với heo gà lam lũ. Đàn ông như ông quá tệ, xóc đầu này, tuột đầu kia, không
gánh nổi hai bó lúa, lưng cong như con tôm quỵ xuống bên bờ ruộng, thôi đành
vác từng bó lên vai… Chú sáu B. nói thôi, không gánh nữa, gom lúa đã gặt chú
gánh giúp. Đứng trên mảnh ruộng này, là rộc Ngang, đám Lớn, bàu Lát… cha đã
dành dụm không dám ăn tiêu để có nó. Bây giờ của HTX, ông Bình đi làm thuê.
Ngày xưa đi học ông Bình băng vườn Chùa,
băng rộc khi mùa tháng tám đã thu hoạch, trơ đất bệ. Miếu Bà linh thiêng nép
mình dưới cây xoài cao vòi vọi, dọc theo bờ mương đến trường học Mới (Hạ Nông
Trung bây giờ), nơi đây có trạm bơm nước, chú B. ba-te vác cuốc theo dòng, khơi
chảy vào từng đám ruộng. Những con dế than, đế cơm ngơ ngác, xoè đôi cánh có
hai viền trắng tròn, bay tứ tung. Đàn sáo sậu, chèo bẻo tha hồ chao liệng, săn
mồi.
Ông Bình ôm cặp qua chiếc cầu tre ông Trọng
đong đưa, bắc ngang lạch Bình Long đến trường. Trưa tan học, lũ trẻ chân không
dép chạy như ma đuổi, những chuyện kể của người lớn ám ảnh: ma dơi, ma dú… Dọc
bờ lạch, tre gai chằng chịt, cọ xát vọng tiếng ỉ ôi, như ma Hời kêu than vong
quốc. Cũng có khi ông Bình rẽ con đường nhỏ, bên nhà ông Đốc Thuyên (con trai
duy nhất của chí sĩ Trần Quý Cáp), qua rộc ngang, nghĩa trang Gò Bướm, về nhà.
Những
địa danh La Hòa - có nhà thờ Công giáo La Nan,
Bất Nhị, Hạ Nông, Nông Sơn, Miên La, Đồng Vòng, Thai La, Nam Hoà… Bãi biền
dâu xanh ngát:
“Một nong tằm bằng
năm nong kén
Một nong kén bằng chín nén tơ
Em thương anh tháng đợi năm chờ
Lòng nào dứt mối lìa tơ cho đành” (ca dao)
Một nong kén bằng chín nén tơ
Em thương anh tháng đợi năm chờ
Lòng nào dứt mối lìa tơ cho đành” (ca dao)
……….
Cha cho mấy cây cột “mùn”, ông Bình
cùng anh Ngộ kéo xe “bò” ra Hòa Châu. Ông bà ngoại cho tre, bà ngoại làm gà ăn cơm tối, anh em đẩy xe
về trong đêm.
Chú Liếng (đã mất) giúp làm nhà, cha
dạy đánh tranh rạ, trộn đất sét với rơm làm vách.
Nhìn con còi cọc, ông Bình ăn trộm con gà của
cha. Đêm tối bắt nhầm con gà mái đẻ, cha chửi quá
trời! Không có gì mời “quan viên”, lại nghe nói xương chó hầm đậu xanh
trị bệnh ghẽ lở trẻ con, ông lừa con chó của cha chạy xuống mương thủy lợi, trấn
nước, đãi khách!
HTX cần người đo đạc. Ông Bình cùng anh
Khóa (đã mất), Nguyễn Đức Thu lập nên “bản đồ giải thửa” đầu tiên của HTX Điện Phước. Ngày đi ngắm, cầm “mia”,
đêm về dạy bổ túc văn hóa. Ông Bình dạy các môn tự nhiên, Trần Hoài Thanh dạy văn, Nguyễn Đức Thu dạy “toàn
bộ” cấp 1, Thầy Điểu quản lý, Tào Bạn – Bí
thư xã đoàn – hiệu trưởng. Mỗi
mùa được chia 60 kí lúa “điều hòa”.
Dượng Tường (đã mất 08.10.2017) cho chiếc xe Lambretta, sơn sửa lại thật đẹp. Có
người gạ đổi xe honda 67, ông Bình tu bổ ngon lành, nhưng không có xăng để chạy.
Để bán có giá, ông tháo tung theo sách dạy:”mở
trước, lắp sau”, chùi rữa cẩn thận, đến piston, xy-lanh cạo trắng tinh, còn
dùng giấy nhám đánh bóng loáng, đến khi ráp vào không biết cái nào trước, cái
nào sau. Nửa đêm, chạy vào nhờ anh Lê Cao Diện (Thư ký UB xã Điện Phước – GĐ/BHXH Điện Bàn sau này), lắp ráp.
Gần sáng, đổ xăng, máy nổ rầm trời, tệ hơn
lúc chưa sửa, do lòng xy-lanh không còn kín hơi. Nhờ vậy ông Bình biết sửa xe
máy, bán cho anh H. – trại gỗ Hiệp Thành.
Ông mua lại xe Suzuki, không xăng, đắp chiếu. Trần Hoài Thanh mượn đi Đà Nẵng,
lúc về nổ banh lốp, không có lốp để thay ông đổi ngang chiếc xe đạp duya-ra của
Nguyễn Xuân Thống (bạn học Nguyễn Duy Hiệu
– Nay ở Bình Mỹ, Củ Chi, đã mất). Bị trộm lấy mất.
Điện Phước, quê hương ông ngày ấy tình
làng nghĩa xóm tràn đầy, những ngày thơ ấu thanh bình. Ông Bình không ngờ thế hệ của các ông đã được những
bàn tay ma quái, lông lá chuẩn bị đưa vào lò thiêu của cuộc chiến huynh đệ
tương tàn. Mộ phần dành cho tuổi đôi mươi đầy hoa mộng, đã được lập trình, từ
những năm đầu thập niên 60.
……….
Quê hương vậy mà đâu có ngọt ngào gì. Cha
mẹ hom hem, cằn cổi với tuổi đời mới hơn năm mươi. Cha ông Bình bệnh phổi nặng,
dùng thuốc streptomycin thường nhật. Cha hướng dẫn mẹ, tập tành tiêm
trên cây chuối trước khi thực sự làm y tá của cha. Streptomycin không được hấp
thu qua đường ruột, nên phải dùng đường tiêm bắp.
Mẹ ông Bình - con gái thành thị,
không rành công việc nông tang, cũng lăn xả sớm trưa, cùng bà con ra đồng, đổi
công lấy điểm. Hình ảnh mẹ ông, chưa bao nhiêu tuổi đã khòm, quần ống cao ống
thấp, nhịn ăn chỉ để mua thuốc chữa bệnh cho cha. Ông Bình đi kinh tế mới sao
đành.
Ngày về quê của ông Bình, không như:“Ngày trở về/anh bước lê trên quãng đường
đê/đến bên luỹ tre, nắng vàng hoe/vườn dâu trước hè cười đón người về…”(Ngày
trở về - Phạm Duy). Ngày trở về của ông thân tàn ma dại bởi bệnh sốt rét.
Cha nhìn ông ái ngại, mẹ sụt sùi. Các
con ông khóc ré không chịu cho ẳm bồng, vợ ông tủi thân lẩn ra vườn chuối sau
nhà thút thít.
Ông Bình trả công gặt thay mẹ. Đòn xóc hai
đầu nhọn hoắt, xóc một đầu vào bó lúa, loay hoay vác lên không nổi, bùn dưới
chân trơn tuột, ông ngả lăn quay.
Học được nghề gò. Ông gò thùng gánh nước,
thùng tưới, thùng đựng phân xanh ủ với nước “giải”, thùng đựng phân bắc cho hợp tác xã. Không phải bò dưới ruộng
khi sốt rét lên cơn.
Mỗi ngày ông nhận được hơn mười đồng công
xá, kể từ ngày ông về với quê hương, những lá trầu trái cau tươi mua về cho mẹ,
gói thuốc rê cho cha,. Mẹ ông chết bất ngờ vì cơn gió độc.
Năm
ba mươi tuổi, một vợ bốn con. Để rồi:
…..
Vùng đất mới một thời đạn lửa
Mãnh bom xen ngô sắn mưu sinh
Em cuốc tôi cày bàn tay rướm máu
Dáng em gầy nắng quái lung linh..
Em quyền quý, tôi một đời rong ruổi
Lá vàng bay ngọc nát xót xa lòng
Gót sen hồng em tần tảo long đong
Tôi vắt mồ hôi vun đầy cơn bỉ cực
Mãnh bom xen ngô sắn mưu sinh
Em cuốc tôi cày bàn tay rướm máu
Dáng em gầy nắng quái lung linh..
Em quyền quý, tôi một đời rong ruổi
Lá vàng bay ngọc nát xót xa lòng
Gót sen hồng em tần tảo long đong
Tôi vắt mồ hôi vun đầy cơn bỉ cực
Tôi đưa em vào rừng sâu
Tôi đưa em ra biển lớn...
Bến bờ xa mong tìm lại đường bay
Mộng hải hồ xưa, tìm ở chốn này
Đêm nguyệt tận mây ru hồn viễn xứ
Đêm trùng dương sóng bạc đầu cô lữ
Tôi đưa em ra biển lớn...
Bến bờ xa mong tìm lại đường bay
Mộng hải hồ xưa, tìm ở chốn này
Đêm nguyệt tận mây ru hồn viễn xứ
Đêm trùng dương sóng bạc đầu cô lữ
Mong trả về em
bóng dáng của người xưa...
bóng dáng của người xưa...
………
Mấy chục
năm tha hương. Mỗi năm hai lần giỗ, anh em chia nhau. Mười năm giỗ mẹ, cha còn.
Nhưng đất
khách quê người, quạnh hiu, vắng thân yêu cật ruột. Năm nay em ông Bình rủ anh
về quê. Giỗ cha tại nhà từ đường. Nền đất cũ, một thời ấu thơ, tung tăng chạy
nhảy. Nhìn về hướng làng Bất Nhị, bàu súng hoa nở viền tím rung rinh trong nắng
sớm. Mây trắng giăng ngang đỉnh núi, êm ái trải dài như dáng mẹ nằm, xỏa tóc
bao năm.
Vết sẹo trên trán em, cánh tay cán vá của anh, nghịch ngợm trèo lên cây đa tìm bắt chim non mà ra. Cây mít cỗi, hàng cau quá già lặng im, nhưng hàm chứa bao nỗi lòng ly tán.
Tất cả anh chị em, một đời lam lũ. Tất bật, dậy từ chưa sáng. Tiếng gà bị túm cổ bất thần, ré lên hoảng hốt. Bếp lữa bừng lên, những chiếc bóng chập chờn tíu tít. Giỗ bác, giỗ chú, giỗ cậu. Mấy khi có dịp được dâng nén hương lòng. Ai cũng hân hoan, ông Bình ngồi nhìn, nước mắt rưng rưng.
Vết sẹo trên trán em, cánh tay cán vá của anh, nghịch ngợm trèo lên cây đa tìm bắt chim non mà ra. Cây mít cỗi, hàng cau quá già lặng im, nhưng hàm chứa bao nỗi lòng ly tán.
Tất cả anh chị em, một đời lam lũ. Tất bật, dậy từ chưa sáng. Tiếng gà bị túm cổ bất thần, ré lên hoảng hốt. Bếp lữa bừng lên, những chiếc bóng chập chờn tíu tít. Giỗ bác, giỗ chú, giỗ cậu. Mấy khi có dịp được dâng nén hương lòng. Ai cũng hân hoan, ông Bình ngồi nhìn, nước mắt rưng rưng.
Chị Năm, nay gù lưng hơn năm trước, quét dọn trong ngoài.
Các bàn thờ đã sạch sẽ tinh tươm. Những lọ hoa phượng vàng, anh Ngộ đã chuẩn bị
từ hôm trước.
Ông Bình như khách, không ai cho đụng tay bất cứ việc gì,
ngoại trừ thắp hương đảnh lễ. Lễ cầu siêu từ sớm, tiếng chuông mõ vọng kinh âm
vang.
Nhà ông còn ba cô, một chú. Ai cũng trên chín mươi, hom hem.
Ở cùng làng, vậy mà gần chục năm nay anh chị em không gặp nhau. Ông Bình định
thuê người võng, mời cô chú đến từ đường gặp và nhìn nhau, nhưng không ai bằng
lòng. Đường làng nhỏ hẹp quanh co, ngại bước chân người. Em gái ông Bình
vẫn còn lam lũ ở quê, chồng em cùng làng. Từ nhà cô P. ông nhìn sang nhà em,
vắng hoe. Mùa gặt, hương rạ thơm lan tỏa, gợi nhớ ngày xưa cũ. Đường làng vẫn
rợp bóng tre mát rượi, có lẽ em ngoài đồng. Con nắng tháng năm rát mặt, hừng
hực. Tiếng xe máy đẩy đưa theo làn gió, ông định nép mình tránh lối. Ai như em,
hiện ra sau khúc quanh, mặt mũi choàng kín mít, em lọt thỏm giữa hai bao lúa.
Chân buông thỏng, rà trên mặt đường giảm tốc, thay phanh.
-
A! anh về hồi mô?
Ông kéo phụ
xe ngừng. Mồ hôi túa ra ướt đẩm, khuôn mặt em khắc khổ nổi bật đôi mắt to, ánh lên tia mừng
rỡ.
-
Anh mới về thất thời!
Ông giữ xe cho em bước xuống, tay ga vẫn cầm chừng.
Hai bao lúa to đùng, bây giờ choán mất chỗ
ngồi. Hai anh em đùn đẩy ì ạch lên dốc, vào sân.
May có ngọn gió nồm, khô nhanh những giọt mồ hôi. Em lấy
chồng xóm dưới, em mới mười bảy. Mẹ ông khóc sưng mắt ngày em vu qui, nhưng em
vô tư không có giọt lệ nào.
Ông không tin được. Từ sớm tinh mơ, gà chưa gáy sáng, em
tất bật với nồi cám heo to tướng. Mồ hôi nhỏ giọt theo từng túm rơm khô vào
bếp, vàng rực ánh lữa. Bầy heo thi nhau chồm mỏ, kêu inh ỏi. Vén gọn bếp vừa
tàn, em xăng xái chất lúa khô lên xe, một bao, hai bao. Ông phụ em ràng buộc,
chở đi chà, buôn gạo.
-
Em quen rồi, anh nghỉ đi, anh không biết làm mô!
Nhìn
em ông ứa nước mắt.
Tiếng chổi quét ngoài sân, vọng vào lòng ông nỗi buồn xa
vắng. Tối qua, mấy anh em hàn huyên tâm sự đến gần nửa đêm, em treo mùng, dọn
giường, bật quạt, tắt đèn. Ông nằm mơ
màng nhớ về tuổi thơ, mẹ chỉ có ông và em. Con bé hay vòi vĩnh, hay nủng nịu là
em ông bây giờ sao? Ông thiếp đi trong
bồi hồi, tiếng côn trùng rả rích đâu đây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét