Thứ Bảy, 25 tháng 9, 2021
ANH NHẠC SĨ
NGẬM NGÙI
Chưa bao giờ Saigon chịu tang thương nhiều như thế. Những giòng phân ưu đột ngột, những hình ảnh bi thương, thông tin không may về người thân, bạn bè khiến lòng người thảng thốt, bất ngờ...
Chị Mỵ giật mình, nhìn ảnh chụp chung với cháu nội. Cháu hao hao giống chị, đôi mắt trong veo, cặp má mịn màng, hồn nhiên của cháu càng lộ rõ nét thời gian nơi khuôn mặt chị.
Bên anh, chị như chim non, nũng nịu. Đôi khi vòi vĩnh giống trẻ con, chị không thấy mình đã qua tuổi năm mươi...
Tâm hồn chị vẫn hồn nhiên như thuở còn tung tăng cắp sách đến trường. Đám bạn thời trung học í ới cà phê, nay chỗ này mai chỗ khác đó thôi. Đôi kính mát che gần nửa khuôn mặt, được lớp phấn mịn màng, son môi tươi thắm làm mờ dấu chân chim trên môi, trên má.
Ai cũng khen chị Mỵ trẻ đẹp. Chị cũng tin vậy, khi ngồi bên những người bạn gái một thời, cùng trang lứa.
Sau ngày anh mất. Chị như bước sang thế giới khác, hụt hẫng, héo hon. Chị vẫn không tin anh đã bỏ chị ra đi, mới ngày nào...
Chị bùi ngùi nhìn lên di ảnh. Nụ cười độ lượng bừng sáng của anh, khiến chị thêm tủi thân và ân hận. Ngày anh còn, chị không biết trân trọng giây phút bên nhau. Bây giờ…
Ngày ấy, anh thô kệch bên chị, như đũa so le. Đôi lúc khiến chị bực mình, xấu hổ.
Anh đã dang tay đỡ, khi chị lỡ mang thai với người tình pilot hào hoa. Vậy mà chị vẫn đồng sàng dị mộng, khi sống bên anh.
Tâm hồn anh đã bao lần cay đắng, nhưng vẫn nở nụ cười bao dung vì sự vô tâm và lãng mạn của chị. Anh càng chìu chuộng, chị càng tỏ ra xem thường, khiến bạn bè chị đôi lúc ái ngại dùm anh.
Anh miệt mài lo toan kinh tế gia đình, chị như bông hoa rừng say mê khoe sắc. Đêm trời trở gió, chị nghe rệu rã mỏi nhừ, một mình cô đơn trong căn nhà trống vắng. Nếu còn anh…
Ngày ấy, nhà chị quyền quý, nghiêm cẩn. Người tình phi công tung cánh bay vào lòng chị. Chị hãnh diện đi bên chàng, tà áo dài trắng thướt tha, quyện nồng nàn bên đôi chân người tình đẹp trai phong nhã. Anh đã gãy cánh bay và cháy thành tro bụi vào một buổi chiều, trong rừng miền Đông âm u.
Chị Mỵ thở dài, xếp lại tập ảnh cũ. Tất cả là giấc mơ, phải không?
Hoàng hôn le lói ngoài hiên, ngày sắp hết và bóng đêm...
Nguyễn Châu
04.9.21
MÊ ĐẮM
Tôi nhớ thời thơ dại, mỗi đêm khi xong việc nhà, bà ngoại dắt tôi đi xem tuồng ở rạp Hòa Bình (Bây giờ nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh) trên đường Phan Chu Trinh - gần ngã năm, Đà Nẵng.
Tôi ôm theo giỏ trầu của bà, từ nhà đi bộ dọc theo đường Phan Chu Trinh ngang qua nhà thương phao-lô, trường Thọ Nhơn của người Hoa. Nhìn các anh lớp lớn đang chơi bóng rổ, khi trái bóng được nâng cao từ đôi bàn tay điệu nghệ lọt vào, tôi phấn khích đưa hai tay lên trời làm trầu cau trong giỏ của bà rơi tung tóe, mặc dù chiếc giỏ mây nhỏ hai quai có nắp. Bà ngoại cốc lên đầu tôi đau điếng rồi dắt tay tôi đi nhanh sợ trễ giờ.
Nhìn từ xa đã thấy ánh đèn neon sáng rực, những tấm pano vẽ khuôn mặt Lữ Bố cầm "Phương Thiên Họa Kích" oai phong trên lưng con Xích thố.
Đêm nay diễn tuồng:"Lữ Bố hí Điêu Thuyền".
Bà ngoại mua vé, con nít được miễn. Kim tuyến lấp lánh trên bộ nhung phục của Lữ Bố, hai đuôi chim trĩ trên mão lượn lờ theo điệu múa, mỗi lần Lữ Bố mắt quắc lên xỉa hai ngón tay lên trời, giậm chân ra điệu bộ, kèm theo tiếng trống phụ họa, khán giả vỗ tay thiếu điều muốn bể rạp. Tôi nhìn quanh, rồi đứng lên ghế cũng vỗ tay theo, tôi cụt hứng khi quay nhìn ngoại, bà ngồi lặng thinh.
Bà ngoại nổi tiếng khó tính trần đời, dù mẹ tôi là con thứ hai trong chín anh chị em, có mấy dì đã lập gia đình nhưng sợ ngoại tôi một phép.
Tôi bắt đầu ngủ gà ngủ gật, bỗng sân khấu hiện ra cảnh Điêu Thuyền e ấp lượn quanh, xiêm y rực sáng, khuôn mặt mỹ miều tựa tiên nga.Tôi chưa bao giờ thấy dung nhan của ai đẹp như Điêu Thuyền, má phấn môi son, thướt tha yểu điệu, tôi ngẩn ngơ như mất... hồn. Bà ngoại lại cốc đầu, tôi giật mình tỉnh cơn mộng mị.
Cảnh Lữ Bố bắt gặp Điêu Thuyền mặt ủ mày chau đứng hầu quạt bên Đổng Trác, khiến Lữ Bố giận dữ cả người rung lên bần bật, ánh kim quang phản chiếu lan tỏa làn sóng long lanh đến tận khán phòng khiến tôi thích thú lẫn sợ hãi nép vào cánh tay ngoại.
Đêm về bóng dáng cô Điêu Thuyền theo tôi vào giấc ngủ.
Tôi là đứa cháu đầu tiên nên được ngoại cưng chìu. Bánh kẹo trong tiệm tạp hóa nho nhỏ của ngoại, tôi thích gì được đó. Những ai cùng thế hệ tôi còn nhớ bánh biscuit có viền răng cưa, kẹo ú, rượu mùi quinquina xanh, đỏ ngọt ngào...
Khi chú hề xuất hiện, nói lối có phần dung tục, mọi người cười, tôi cười, ngoại không cười.
Hát bội là loại nhạc kịch thịnh hành ngày trước khác với chèo, cải lương. Âm hưởng của tuồng hát bội hùng tráng, xả thân vì đại nghĩa, thể hiện ứng xử của con người giữa xã hội, gia đình và tổ quốc, nghệ thuật tuồng là sân khấu của những người tận trung báo quốc, hiếu trung, phê phán thói đời phi nhân phi nghĩa. Lối ra bộ của hát bội khác với cải lương xã hội, cải lương Hồ Quảng (cải lương tuồng cổ)
Sân khấu ngày xưa biểu lộ thái độ trung nịnh, dè bỉu, tôn kính rõ ràng, nói "cương" thiếu văn hóa hay phạm thuần phong mỹ tục, vô duyên bị la ó tức thì chứ không như bây giờ cái gì cũng cười ồ, dễ dãi cho lấy có. Những người làm nghệ thuật là tấm gương sáng của khán thính giả. Mỗi người có riêng thần tượng của mình tùy theo độ cảm thấu âm ba đi vào lòng người.
Dù người nghệ sĩ đã giải nghệ hoặc quá vãng từ lâu nhưng vẫn còn lưu giữ mãi vóc dáng, giọng ca, điệu bộ trong lòng người hâm mộ.
Thời gian là quy luật đào thải trong nghệ thuật sân khấu nghiệt ngã vô cùng, sự chuyên cần luyện tập, ham học hỏi, trình độ chuyên môn và giữ mình của người nghệ sĩ rất gian nan.
Tuổi đã hoa râm, cuộc đời tôi thăng trầm theo giòng đời, bôn ba vì vinh hoa phù phiếm nhưng hình ảnh đẹp đẽ trên sân khấu của cô... Điêu Thuyền ngày xưa vẫn lung linh trong tôi, mãi đến tận bây giờ.
Nguyễn Châu
MA LAI
Thứ Sáu, 17 tháng 9, 2021
GIỌT NẮNG TRONG SƯƠNG : 177 - 247
ĐI TÌM HÀNH TRÌNH CỦA CHA TÔI
Ông nội tôi là thầy
đồ, con đông. Cha tôi thứ bảy.
Cha sinh năm 1918 (Mậu
Ngọ), nhưng khai sinh ghi 1916.
Trước năm 1939, người
ta nhìn thấy những tấm áp-phích: "Mẫu quốc đang gặp nguy. Nghĩa vụ của bạn
là giúp đỡ mẫu quốc”.
Cha tôi tình nguyện đi
“Tây” thay bác tôi, đã có gia đình. Mỗi nhà ít nhất một người đi. Trước ngày
lên đường, ông tôi đem trầu cau hỏi vợ cho cha. Mong sự ràng buộc này cha tôi
sẽ trở về, dù cha chưa biết mặt người hôn thê của mình.
Làng tôi thuần nông,
lúc đó rất nghèo. Chỉ có bác Sáu, chú Mười và cha tôi học được chữ Nho từ ông
nội. Các cô không ai biết chữ...
“Năm 1939, nước Pháp
đã đưa 20.000 người từ thuộc địa Đông Dương sang Pháp để làm những công việc
cực nhọc, như trộn thuốc súng. Phần lớn họ bị tuyển mộ cưỡng bức.
Tàu cập bến Marseille,
họ bị đưa vào nhà tù Baumettes, rồi được phân bổ đi khắp nước Pháp, đến những
xí nghiệp thuộc ngành quốc phòng và được gọi là “lính thợ không chuyên” – ONS
(Ouvriers Non Spécialisés)
Có người bị sung vào
lính chiến đấu ở Pháp, đánh nhau với quân Đức. Từ năm 1946, họ được đưa trở về
Việt Nam một cách nhỏ giọt và mãi đến năm 1952, những người cuối cùng mới được
trở về tổ quốc. Khi đó, cũng có khoảng một nghìn người đã chọn định cư tại
Pháp”(1)
Cha tôi làm lính thợ.
Trong một lần nhà máy bị ném bom, cha bị thương, mảnh đạn xuyên qua phổi. Bệnh
viện Marseille đã cứu cha tôi, nhưng sau này để lại di chứng nặng nề, khi trái
gió trở trời.
Ở quê nhà, mỗi tháng nội tôi được lãnh tiền. Nhận được tiền, ai
không mừng. Nhưng ông bà tôi yên lòng, vì cha tôi còn sống.
Đệ nhị thế chiến (1939-1945) kết thúc, cha tôi sống cuộc đời lưu
vong, không được hồi hương. Cha tôi học nghề sửa đồng hồ và hành nghề lưu động.
Tôi mường tượng trên con đường hoa lệ của kinh đô ánh sáng Paris, một người da
vàng thuộc địa là cha tôi, đang lang thang với chiếc thùng gỗ “sửa đồng hồ”.
Tôi ứa nước mắt.
Mãi đến 1948, chuyến tàu buôn của Pháp cập
bến sông Hàn. Cha tôi trở về với thân hình tiều tuỵ. Nhưng cha không thể về
thăm ông bà tôi. Những người nông dân hiền lành chất phác quê tôi đã được trang
bị căm hờn. Nhất là đối với những gia đình có người làm tay sai cho thực dân,
đế quốc.
Cha nhắn cô Lan ra Đà
Nẵng. Cô đi từ lúc gà chưa gáy sáng, đôi chân trần vượt hơn hai mươi cây số. Đã
mười năm qua, anh em mới có dịp trùng phùng, cô ôm cha tôi khóc ngất.
Lần đầu tiên trong
đời, cô thấy cây lụa Lãnh Mỹ A. (Lụa được dệt từ tơ tằm hảo hạng, nhuộm đi
nhuộm lại hàng trăm lần nhựa trái mặc nưa, trong suốt gần nửa năm trời. Lụa
trơn, đen láng, mặc vào người như được vuốt ve trên da thịt. Mùa hè mát rượi,
mùa đông ấm áp. Càng mặc, càng giặt, càng đen huyền). Lụa Vạn Phúc, Hà Đông.
Vải sợi bông, vải tơ tằm… Cha nhìn cô Lan, áo quần vải tám thâm đen, ống quần
cao hơn mắt cá. Hai anh em nước mắt dâng tràn.
Cô gánh oằn vai, món
quà quá xa xỉ đối với nhà nội tôi. Ông nội chưa kịp mặc quần áo mới, ông mất. Được
tin, cha tôi băng đồng chạy bộ. Trăng lên đến đỉnh đầu, cha về lại mái nhà xưa.
Bà nội mắt đã mờ không nhìn rõ mặt cha tôi, sờ đầu sờ cổ, hết khóc lại cười.
Đám tang nội tôi to nhất làng. Cúng tế linh đình hơn ba ngày trời.
Bạn chăn trâu với cha tôi, nay là cán bộ Việt Minh. Không ai thù
hằn, không ai bắt bớ cha tôi.
An dưỡng ít lâu, cha
gặp mẹ tôi. Bà đã có một đời chồng, chồng theo Việt Minh bị tây bắn chết. Người
đàn bà nội tôi đi hỏi cho cha ngày xưa, nay không biết lưu lạc phương nào.
Cha mua đất cất nhà,
láng giềng của ngoại. Mẹ theo ghe bầu của ông ngoại ngược xuôi theo dòng sông
Hàn vào tận Phan Thiết, Saigon. Lâm thổ sản: tơ lụa Duy Xuyên, quế rừng Trà My,
mật ong, vỏ cây chay (ăn trầu) được đổi trao với hàng nông, hải sản phương Nam.
Ngày cha thành hôn với mẹ, không có họ hàng bên nội. Ông ngoại
chỉ cần tính cần cù và tấm lòng của cha tôi làm sính lễ.
Cha không biết tiêu
tiền. Ông chắt chiu từng đồng xu nhỏ. Nhưng ông tiêu tiền cho người khác.
Mẹ tôi có nhiều áo
dài, thời trang lúc bấy giờ. Cha tôi chỉ có một bộ veston và đôi giày từ thời
bên Pháp mang về. Những gì tốt nhất, cha dành cho mẹ tôi.
Mỗi cuối tháng, cha ra
ngân khố lãnh tiền trợ cấp từ chính phủ Pháp. Các dì gọi cha tôi: Anh Bảy “kiều
bào”. Mẹ tôi hãnh diện lắm, mỗi lần có tiền mẹ tôi chi xài thoải mái và hào
phóng như “Tây”. Cha tôi chỉ nói:” Đàn
ông như cái nhà, đàn bà như cái cửa”, vậy thôi.
Năm 1949, cha tôi được
điều động làm cai “lục lộ”(quản lý đường sá) ở Mỹ Chánh, Quảng Trị. Chị An, con
riêng của mẹ, được hai tuổi chị mất. Tôi được hoài thai.
Cha đưa mẹ ra Huế,
tiện bề chăm sóc và an ủi.
Mùa đông năm ấy rét
đậm. Cha ho dữ dội, bệnh phổi tái phát. Cha đưa mẹ về Đà Nẵng, rồi theo tàu lửa
vào Saigon, bệnh viện Grall. Qua tết Canh Dần (1950), cha tôi vẫn chưa về. Tôi
ra đời tại “nhà thương” Bà Quế.
Cha được chuyển sang
Pháp. Ông bị lao phổi nặng, điều trị ở bệnh viện Saint Hilaire du Touvet,
Grenoble. Thời đó bệnh lao phổi chưa có thuốc chữa trị như ngày nay. Các bác sĩ
Pháp nơi ông điều trị, chẩn đoán ông không thể sống hơn một năm.
Trong thời gian nghỉ
dưỡng bệnh ở Pháp, ông tình cờ biết được phương pháp hít thở của bác sĩ Nguyễn
Khắc Viện:
“ Thót bụng thở ra
Phình bụng thở vào
Hai vai bất động
Chân tay thả lỏng
Êm chậm sâu đều
Tập trung theo dõi
Luồng ra luồng vào
Bình thường qua mũi
Khi gấp qua mồm
Đứng ngồi hay nằm
Ở đâu cũng được “
Nhưng đã hơn một năm,
cha tôi không chết. Lần này ông được chính phủ Pháp cho về bằng máy bay của
hãng hàng không Air France. Cha đã khoẻ mạnh hơn xưa.
Quê hương tôi không bình yên.
“Tại miền trung, Việt
Minh kiểm soát từ Hội An đến Mũi Đại Lãnh, gần như ngăn đôi đất nước. Người
Pháp chưa bao giờ tỏ ra muốn "giải thoát" cho thuộc địa cũ.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945,Việt Minh cướp chính quyền.
Bảo Đại đọc Tuyên ngôn Thoái vị trước cửa Ngọ Môn, Huế.
Ngày 8 tháng 3 năm
1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước
Elysée, thành lập Quốc gia Việt Nam, hội viên trong khối Liên hiệp Pháp đứng
đầu là Quốc trưởng Bảo Đại. Đầu năm 1950, Hoa Kỳ bắt đầu chính thức gửi viện
trợ quân sự cho Pháp ở Đông Dương.
Mỹ tuyên bố "ủng
hộ nguyện vọng độc lập dân tộc tại Đông Nam Á" trong đó có Việt Nam, nhưng
với điều kiện "lãnh đạo của những nhà nước mới không phải là người cộng
sản".(2)
Người dân quê tôi như
kiến bò quanh lòng chảo, không biết lửa đốt nóng lúc nào. Đất nước ngả nghiêng,
trầm mình mang thân phận nhược tiểu đớn đau.
Cuối năm 1951, chú
Chín tôi cõng bà nội tránh càn của Tây. Chạy vừa đến gốc đa, chưa kịp xuống hầm
đã bị bắn chết. Bà tôi già và mù nên được tha. Cha từ Quảng Trị hay tin, về đến
nhà, bà tôi cũng đã qua đời.
Cha tôi cũng là con
kiến. Lòng dân đất nước tôi không còn đồng lòng như loài kiến, loài ong. Sự
phân hoá thê thảm, thù nghịch bởi những luận điệu ghê tởm đã len lỏi vào sự cả
tin của đồng bào tôi, từ nhiều nguồn, nhiều hướng.
Cha tôi mắt trừng
trừng, phẫn uất. Sự hoang mang, chông chênh phận người, lênh đênh giữa dòng
nước xoáy, hai bờ mờ mịt mù sương.
Ngóng trông về quê nhà
tan hoang lửa khói. Các cô tôi chưa chồng di cư ra thành phố ở với mẹ tôi. Chú
Mười và các dượng (chồng cô) theo Việt Minh làm du kích. Bác tôi nối nghiệp ông
nội làm thầy địa lý, tụng kinh cầu siêu cho những vong hồn bất đắc kỳ tử.
Hội nghị Genève khai
mạc ngày 26 tháng 4 năm 1954 để bàn về vấn đề khôi phục hoà bình ở Đông Dương.
Nhưng đau lòng vì chia đôi đất nước.
Tại miền nam, Ngô Đình
Diệm truất phế Bảo Đại. “Ngô Đình Diệm là một nhân vật gây nhiều tranh cãi
trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Một số sử gia coi ông chỉ là công cụ chính
trị trong tay người Mỹ, trong khi đó một số sử gia khác coi ông là nhà chính
trị độc lập mang nặng truyền thống phong kiến Việt Nam. Một số nghiên cứu gần
đây còn cho biết rằng Ngô Đình Diệm là người tự cho mình đang gánh vác một
"Sứ mệnh từ thiên đàng" (Mandate of Heaven) và ông có viễn kiến riêng
về hướng phát triển của miền Nam Việt Nam” (3)
Bác tôi bỏ vợ con, tập
kết ra Bắc. Gia đình chú Mười bị tố “cộng sản nằm vùng”. Cha tôi được chính phủ
Việt Nam Cộng Hoà mời tham gia “thân hào nhân sĩ” tại địa phương. Nhờ đó, gia
đình bác tôi, chú Mười được an thân.
Quê nội tôi yên ả
nhất, có lẽ từ sau hiệp định Genève 1954 đến cuối năm 1960! Đúng là thái bình
thật, không trộm cắp, cửa thường bỏ ngỏ trong những đêm hè. Tiếng hò khoan trong mùa cấy tháng tám,
tháng ba thoang thoảng theo làn gió bay xa.
Rồi một ngày những
người không phải lính, nhưng mặc đồ màu đen mang súng, vào ở chung với dân
làng…
“…Mùa xuân năm 1962,
chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành Quốc Sách Ấp Chiến Lược mục tiêu căn bản là
tách rời du kích, quân sự của Cộng Sản còn cài cắm ra khỏi nhân dân nông thôn,
không cho dựa vào nhân dân để xây dựng cơ sở hoạt động phá hoại, cuối cùng là
cô lập hoàn toàn phải ra hồi chánh hoặc bị tiêu dịêt…”(3)
Mùa hè lại về, cái nắng như thiêu như đốt, kèm theo gió hạ Lào
khô khốc thịt da.
Xóm Nga Tiền khoảng
mươi nóc nhà, có đến bốn bà góa. Những người chồng đã hy sinh hoặc bị bắn chết
như chú Chín tôi trong thời kỳ chống Pháp. Tây càn, ông Nhì ôm súng leo lên cây
đa. Ông ra đi khi bà Nhì chưa đến ba mươi. Rồi những năm sáu ba, sáu bốn, hưởng
ứng phong trào "ba sẵn sàng" thế hệ tiếp nối như anh Đông, Diên, Dần,
Cật, Bảy… lần lượt vào du kích và hy sinh khi chưa đủ lớn.
Tôi là ai? Lịch sử đất
nước tôi bị quay vòng trở lại như ngày cha tôi bị cưỡng bức lên tàu sang Pháp
làm cu-li cho mẫu quốc hay bỏ xác nơi hoang địa xứ người. Hai mươi năm tương
tàn, cũng đủ cho thế hệ chúng tôi trở về nơi xuất phát của cha tôi.
Nguồn:
(1) https://onsvietnam.wordpress.com/.../linh-tho-dong-duong.../
(2) https://vi.wikipedia.org/.../Chi%E1%BA%BFn_tranh_%C4%90...
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Di%E1%BB%
LONG “MÃ TÀ”
Con Phượng bẻ cành
cây, lom khom vạch đường dài giữa sân, ngước nhìn thằng Long:
- Đây là ranh giới của
tao, cấm xâm phạm nghe Long “mã tà"!
Cha thằng Long làm
cảnh sát, giữ an ninh trật tự bến xe. Thằng Long ngẩn người, nhìn đường kẻ
ngoằn ngoèo như con rắn bò, rồi vạch cu ra đái. Con Phượng đỏ mặt tía tai,
sượng trân.
Con gái tức quá là ứa
nước mắt. Phượng chạy vô nhà, nằm khóc rấm rứt, nó dòm qua cửa sổ, thằng Long
ngồi chống cằm, buồn thiu.
Hai đứa cùng lớp, đi
về có đôi. Thằng Long nhỏ con nhưng tử tế, luôn che chở cho con Phượng. Có lần
bị thằng Cường “trâu” đè xuống mương nước, áo quần lấm lem vì bênh vực con
Phượng. Phượng lại vỗ tay cười.
Thằng Long ấm ức, ôm cặp đi thẳng. Phượng chạy theo không kịp,
ngồi xuống khóc thút thít, không biết nghĩ sao, Long quay lại dỗ dành...
Những đêm trăng sáng,
bàng bạc màu vàng rơm lan tỏa, ánh trăng phản chiếu từ mặt ao lung linh, trời
xanh ngắt. Hai đứa ngồi bên nhau, lặng yên nghe tiếng dế nỉ non đâu đó trong
vườn.
Ngày nhà thằng Long di
cư vào Nam, con Phượng nấp sau hàng dâm bụt nhìn theo…
……..
Đường phố Saigon hình
như rộng thêm ra, những chiếc taxi hai màu xanh trắng nằm trong bãi buồn
hiu.
Lâu lâu có tiếng xe
cyclo máy phành phạch rồi mất hút về phía Chợ Lớn.
Từ Givral nhìn sang
thương xá Tax, không còn nhộn nhịp như xưa. Khách sạn Rex, Continental nhếch
nhác, vắng tanh.
Thỉnh thoảng vài phóng
viên ngoại quốc đưa máy ảnh dọc ngang đại lộ Lê Lợi, Nguyễn Huệ như cố lưu lại
những hình ảnh một thời huy hoàng của Hòn ngọc Viễn Đông.
Long uể oải nằm đọc
sách. Chiếc cylo cà tàng, tiền thuê mỗi ngày bằng ba ký gạo, ế là vợ con ăn
khoai mì, thứ sượng trân, kéo chỉ, đắng ngắt.
Long ngáp dài, đạp
chầm chậm, mắt dáo dác tìm khách. Thời quý bà kín đáo vén tà áo dài, nhẹ nhàng
ngồi lên xe, mùi nước hoa thơm ngát vắng đâu rồi. Khách chung thủy của cyclo
đạp bây giờ là mấy bà bán cá, bán chè, quang gánh tòn teng theo điệu buồn vòng
quay của bánh xe mệt mỏi.
Nắng trưa gay gắt,
Saigon mùa mưa, nhưng hôm nay đổ lửa. Bến Bạch Đằng im ắng. Bên kia sông, những
tấm biển quảng cáo phản chiếu tia nắng nhức mắt. Dòng sông phẳng lì, lững lờ
từng dề lục bình trôi ngược theo con nước lớn về miệt Thanh Đa.
Long vòng xe theo cánh
tay vẫy. Người khách lớn tuổi, khuôn mặt phong trần, muốn về đường Hưng Phú,
bên kia cầu chữ Y. Khách lên xe, không hỏi bao nhiêu tiền. Long đâm bối rối
định hỏi lại, nhưng thôi.
Anh xuôi đường Hàm
Nghi ra chợ Bến Thành. Có lẽ khách từ Bắc mới vào. Khách lấy từ ba lô nải chuối
vàng ươm, đưa ngược hai trái về phía Long, anh cám ơn và đón lấy.
Dù hơn hai mươi năm
sống trong Nam, nhưng giọng nói của Long vẫn còn đậm chất miền quê Nam Định. Có
lẽ sinh hoạt trong cộng đồng di cư cùng giáo xứ, nên gia đình anh vẫn giữ được
nếp sống, giọng nói quê nhà.
Đường Trần Hưng Đạo
rợp bóng mát cổ thụ, cơn gió xế trưa hiu hiu khiến Long buồn ngủ.
- Anh người tỉnh nào?
Câu hỏi đột ngột của khách làm Long tỉnh người.
- Dạ, quê tôi Hải Hậu,
Nam Định. Long đáp.
Khách quay người ngước
nhìn anh.
- Tôi cũng Hải Hậu.
Giọng khách sôi nổi:
- Quê ta nhiều vị nỗi
tiếng lắm đấy, nào là Giáo sư Ngô X, nhà thơ Vũ Quần Phương, nhà văn Nguyễn
Thi…
Long chợt nhớ nhà văn
Mai Thảo, nhạc sĩ Vũ Thành An cùng quê anh. Long định góp lời nhưng ngại nên
thôi.
Sau ngày gia đình anh
trốn về, từ vùng kinh tế mới. Mẹ anh đâm ra lo sợ đủ thứ, bà như cành cây khô,
thẩn thờ ngày đêm nguyện cầu cùng tràng hạt Mân Côi. Cây thánh giá cùng tượng
Chúa bùi ngùi xót thương con chiên ngoan đạo, chỉ một sớm một chiều mất đi tất
cả: Chồng, nhà cửa và gia tài một đời ki cóp. Bà khuyên anh: Chớ nhận họ hàng.
Nhưng người khách
không buông tha. Sự tươi tỉnh và nụ cười thân thiện của ông, khiến anh chợt nhớ
về đêm trăng bên bờ ao ngày nào, quê anh thời thơ ấu.
- Bác ở làng nào quê ta?
- Tôi Trực Đại, còn
anh?
Long giật mình, vòng
quay bánh xe chậm hẳn. Dốc lên cầu chữ Y như thẳng đứng, tóe đom đóm cùng cơn
đói co thắt trong anh.
Người khách lịch sự
xuống xe đi bộ, Long nhìn theo đôi vai hơi gù cùng dáng đi tất bật, có lẽ khách
cũng một đời lam lũ mưu sinh.
Từ ngã ba giữa cầu, rẽ
về Hưng Phú, Long ghì bi-đanh, tay cầm hờ cần thắng, cyclo chạy nhanh cũng làm
Long bở hơi tai. Mùi chợ cá Chánh Hưng tanh nồng trong gió. Nhìn khách lần ngón
tay theo bản đồ vẽ bằng bút nguyên tử vụng về, trên trang giấy học trò. Long
chầm chậm đưa xe vào lề đường...
Nhìn địa chỉ, Long ngờ
ngợ…
- Bác tìm nhà ông Khởi
phải không ạ?
Ông khách bừng sáng
đôi mắt, giọng hối hả:
- Vâng, vâng. Ông Khởi
đúng rồi, đúng rồi!
Ông Khởi là bạn ông Kỳ
- cha của Long. Ông là kỹ sư, trưởng ty công chánh tỉnh P. Ông cùng ông Kỳ bị
đưa ra Bắc, sau ngày miền Nam sụp đổ. Nhưng ông Kỳ đã mất, vì sốt rét ác tính.
Ông Khởi vẫn chưa về…
Khách mời Long vào quán nước bên đường. Ông tự giới thiệu tên
Khanh, bác sĩ công tác tại nhà tù Ba Sao, Nam Hà.
Ông Khởi trước khi lìa
đời, nhờ ông trao lại di vật cho gia đình, gồm cuốn nhật ký và chiếc đồng hồ
cũ. Ông lấy từ ba lô, cuốn tập quăn queo trao cho Long. Trang đầu tiên dán tấm
hình trắng đen: vợ chồng và bốn đứa con ông Khởi. Long ứa nước mắt, đôi mắt
cương nghị của ông Khởi như có thần, đăm đăm nhìn Long. Anh áp cuốn tập vào
ngực, thở hắt ra, lả người đi.
Ông khách bối rối vỗ
vỗ vào lưng anh. Mồ hôi ướt đẫm chiếc áo sơ mi đã ngả sang màu cháo lòng.
........
Ngày mới vào Nam, gia
đình ông Kỳ và ông Khởi được đưa về khu tạm cư Tân Mai, Biên Hòa. Ngày ấy hai
người chưa đến tuổi ba mươi.
Hai ông cùng về hưu
non, sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị đảo chánh. Ông Khởi chuyển sang nghề
thầu khoán, ông Kỳ chung vốn thành lập công ty địa ốc Kim Sơn. Ngành bất động
sản đã ưu ái đưa hai ông lên hàng danh gia, giàu có.
Những căn nhà phố,
khách sạn, nhà hàng… của hai ông, bị tịch thu sau những lần cải tạo công thương
nghiệp, đánh tư sản mại bản.
Bà Khởi, bà Kỳ bàng
hoàng, chỉ nhận biết những gì xảy ra khi cửa mở và tổ công tác đặc biệt bất ngờ
có mặt, đọc quyết định "kê biên tài sản". Nhà cửa bị niêm phong. Hai
gia đình có bảy ngày chuẩn bị đi "xây dựng vùng kinh tế mới".
Long không còn được
“lưu dung”. Mảnh bằng đại học sư phạm, chỉ được chọn nghề cu-li hay về nông
thôn tham gia sản xuất.
Đọc xong cuốn nhật ký,
ông Khanh mới nhận ra ông Khởi cùng làng quê Trực Đại năm xưa. Gia đình ông
Khanh cũng không may mắn gì hơn, cha mẹ ông bị đấu tố lên bờ xuống ruộng, thành
phần ghẻ lở trong xã hội đương thời.
Ông Khanh quyết định
xin nghỉ việc, thu xếp vào Saigon.
Bà Khởi ngạc nhiên khi
thấy Long ghé thăm cùng người khách lạ. Bà vỡ oà trong đau đớn, khi hay tin
chồng bà không còn nữa. Ông Khanh cảm thấy như mình có lỗi, nhớ về những ngày
tháng cùng ông Khởi trong trại giam. Những tù nhân phù thủng, kiết lỵ, sốt rét
co quắp trong trạm xá. Những thân hình tiều tuỵ buông xuôi, mang theo bóng dáng
người thân về miền miên viễn, vì thiếu thuốc men.
Lúc giã từ, ông Khanh
hẹn gặp lại Long. Ông sẽ cùng gia đình vào Saigon sinh sống, nhưng chưa biết
chọn nơi nào.
Đất trời mang mang,
từng đàn chim bay về phương nam tìm nắng ấm. Long sốt sắng chở ông Khanh đi
thăm các danh lam, thắng cảnh thành phố. Tấm lòng đôn hậu, tử tế của những
người dân nơi đây, khiến lòng ông càng thêm bùi ngùi, ray rức.
Ngày gặp lại gia đình
ông Khanh, Long thoáng giật mình. Bà Khanh nhìn Long đăm đăm, rồi vỡ oà trong
niềm hân hoan. Duyên trời cho bà gặp lại người bạn thuở thiếu thời. Bà Khanh là Phượng ngày nào…
......
Xong trung học, Phượng
thi vào trường đại học an ninh. Cùng công tác tại trại giam Ba Sao với ông
Khanh.
Biết bao nhiêu kỷ niệm ùa về trong tâm tưởng của Long thời thơ
ấu...
Nhưng trong môi trường
đối kháng ý thức hệ, khiến tâm hồn Phượng trơ ra. Lòng nhân ái không thể bộc
lộ, đã thui chột những gì còn le lói tình người trong Phượng.
Sự vồn vã ban đầu đã
nhường chỗ cho e dè cảnh giác. Phượng dường như đã quên hẳn những kỷ niệm thời
thơ dại. Những ngày hồn nhiên tung tăng đến trường, đường làng rợp bóng tre dịu
mát, những đêm trăng...
Nét kẻ ngoằn ngoèo trên sân ngày nào, đã thực sự là ranh giới
nghiệt ngã trong tâm hồn của Phượng với Long “mã tà”.
LINH MIÊU
Vụ nổ
bể chứa khí biogas, cháy lan chái bếp khiến hai Thiện bị đui. Sau thời gian nằm
bệnh viện, đứa con gái duy nhất của anh muốn bỏ học làm nghề. Nghề gì với con
bé tuổi mới mười bốn? Nghe câu hỏi đã rụng rời, thói thường gặp hoàn cảnh bi
đát con gái đẹp dễ hư, dễ sa ngã nhưng Hồng Nhung được bà con xóm nghèo đùm bọc.
Thiện đui giậm chân tủi thân oán trách ông trời. Cửu trùng còn xa vời vợi huống
gì gặp được ông thượng đế. Thời buổi gì ông trời chỉ sai thiên lôi đánh kẻ hiền
lương. Mới đây thôi bà tư Mành còn kể chuyện cho con nít nghe trong đêm Trung
Thu:
- Xóm Kim
Giang bên kia sông có thằng con bất hiếu được cha mẹ tảo tần nuôi cho khôn lớn,
đã hổn láo không phụ giúp lại quay ra tróc nả tiền bạc của cha mẹ để ăn chơi, bị
ông trời sai thiên lôi đánh chết đứng như trời trồng, cháy đen thui.
Lũ trẻ sợ quá, co rúm người. Tiếng đì đùng, chớp lóe
báo hiệu trận mưa giông, mây kéo từ đâu về đen nghịt bầu trời. Hồng Nhung không
tin lời bà tư Mành kể, sự bất công hiển hiện rành rành đã giáng xuống gia đình
cô, cha cô bị mù không phải do tầm sét đánh bậy mà vì mưu sinh trong cuộc sống
an bài.
Ánh nắng mặt trời lấp lánh sau vòm lá như những con mắt
chiếu rọi vào tâm tưởng đang cô đơn trống rỗng của cô. Tai nạn của gia đình cô lại là cơ may cho lão xã trưởng
Nghè. Theo nhân tướng học, khuôn mặt như quả trứng phình ra hai bên
má như mặt chuột của lão thể hiện tính tham lam, tự mãn, hách dịch. Người lâu
nay ngấp nghé tơ tưởng đến bóng dáng yêu kiều của mẹ cô. Quan phụ mẫu phải
biết lo đến cái ăn cái mặc, hạnh phúc của bá tánh, "Dân dĩ thực vi
thiên" (Dân lấy ăn làm trời), dân đói thì nước suy vi. Từ ngày cha cô gặp
nạn, không thấy mặt mốc nào đại diện chính quyền đến ủy lạo thăm hỏi.
Bà tư Mành cho chục trứng và dề mỡ cá thiều, chép miệng:
- Dầu
cá bổ mắt, rán ra mỡ để dành cho cha mi ăn cơm. Mi đẹp người đừng nghe bọn đầu
trâu mặt ngựa xúi giục đi làm đĩ. Hồng Nhung ngạc nhiên nhìn bà, không hiểu bà
nói gì.
Làng
Ninh Giang mấy hôm nay chộn rộn bất an, nghe đâu có lịnh trên điều dân công lên
mạn ngược xây hồ đắp đập. Cái rủi thành may, kiểu "Tái ông thất mã",
nhân tai di họa nhưng ông trời lại ban cho anh Thiện "thong manh" được
nhìn lờ mờ, không đến nỗi cha con cô cầm gậy dắt đi ăn mày.
Ngồi bên con mương nhìn chiếc lá theo giòng nước róc
rách trôi xuôi sau cơn mưa, lòng Hồng Nhung bỗng dịu đi, dòng đời đẩy đưa thân
phận cô về đâu trong cảnh đời nghiệt ngã này.
Hớp ngụm cafe rồi rít bi thuốc lào đầu tiên trong ngày
là cái thú vị ngất ngây của hai Thiện. Ngoài trời hơi sương còn bảng lảng lùa
vào khung cửa se se lạnh, anh kéo cao cổ áo. Nhìn khung trời xám mờ của đêm về
sáng, chợt tia phản quang từ đôi mắt của con mèo mướp dội ngược khiến anh chớp
mắt, ứa ra hai giọt nước lăn dài ánh lên màu bạc trên đôi gò má khắc khổ. Con
mèo cựa mình vào chân anh, hơi ấm lan dần, bất chợt anh nhớ chuyện "Linh
Miêu nhà bá hộ Sang" được ông nội kể từ thời thơ dại:
"Các cụ kể rằng: Làng Ninh Giang xưa kia do sông
Phù Lai bồi đắp, tên con sông mang hàm ý phù thịnh ngày sau cho con cháu đời đời,
dù Ninh Giang là làng "trẻ" được bồi đắp bởi phù sa, nhưng thế đất
"địa linh nhân kiệt" đã sản sinh bao anh hùng liệt nữ. Tổ tiên đã
khai mở dần về phương Nam nên làng ta ngày càng trù phú, hiếu hòa. Ngược lại,
làng Kim Giang bị lũy tre già trên bờ đê sông Phù Lai ngăn trở, càng suy vi lụn
bại. Thói đời bần cùng sinh đạo tặc, lòng người cũng nghiêng ngả theo hướng tối
tăm, nhân tâm ly tán.
Nhà bá hộ Sang lại có điều kiện cho con cháu học thành
tài, trong nhà có nuôi bầy mèo không biết mấy con, nhưng một hôm mấy con mèo đẻ
cùng một lượt, lạ một điều đều tha nhau dâng lên chỗ bàn trà của ông bá hộ. Ông
cho là điềm lạ, các loài thú thường ăn lại nhau khi con lọt lòng. Ông gói
ghém phơi khô xem như bảo vật, người xưa cho rằng nhau mèo đem lại may mắn và
tài lộc cho gia chủ. Nhưng sau đó ít lâu, trước khi bá hộ Sang qua đời, ngoài
gia tài ông còn chia cho các bà vợ, mỗi bà một bọc gấm nhau mèo.
Đời sau con cháu đều thành đạt và giàu có cả.
Nhưng một hôm làng Ninh Giang náo động vì bị bọn
bịt mặt cướp của giết người tra khảo, gia sản không ai mất gì chỉ riêng nhà con
cháu ông bá hộ mất túi nhau mèo.
Sau đêm hôm ấy, mưa to gió lớn, nước từ thượng
nguồn đổ về xuôi gây ra lụt lớn khiến rìa làng Kim Giang sụt lở, cả lũy tre già
bị cuốn trôi ra biển Đông thành bàu cạn bây giờ.
Từ đó, làng Ninh Giang cũng tiêu điều, trai
tráng tha phương cầu thực chỉ còn lại những người già yếu, ruộng nương dần
hoang hóa.
Vợ hai Thiện không chịu nỗi cảnh nghèo đã bỏ rơi cha
con anh, ôm cầm sang thuyền khác. Nghe nói chị ngấm lời đãi bôi của xã trưởng
Nghè xuống phố huyện mở cửa hàng tơ lụa, vốn chị đã đẹp người lại thêm phần điệu
đà lơi lả khiến bao quan chức si tình, có người đánh đổi cả sự nghiệp vì nhan sắc
của chị.
Hồng Nhung càng lớn càng xinh đẹp cũng đã bỏ rơi cha về
sống với mẹ.
Các cụ nhớ chuyện xưa cho rằng linh miêu nhà bá hộ
Sang đã hóa cáo ẩn vào thân xác mỹ miều của mẹ con chị. Rồi đây, truyền thống
văn hóa, đạo đức muôn đời của làng Ninh Giang sẽ điêu đứng nghiêng ngả vì sự dối
trá, ma mị lên ngôi.
Hai Thiện trầm ngâm nhớ về những ngày êm đềm xưa cũ
đâm ra chán đời, trong lòng anh hằn lên nỗi căm thù lũ linh miêu quái quỉ đã
gây ra cảnh chia lìa, khốn khổ đời anh.
RẮN MẮT
Anh Điền con bác Hương
Biền lớn hơn tôi ba tuổi. Ảnh tuổi Tý, tôi tuổi Mẹo. Các cụ thường cho rằng hai
thằng tuổi này "tứ hành xung" không hợp, vậy mà chúng tôi chơi thân
với nhau từ ngày để chỏm.
Anh Điền sau giờ đi
học về thường dắt trâu ra đồng gặm cỏ, cánh đồng lúa đang trổ đòng đòng, những
bông lúa vươn mình trong nắng chiều màu hồng phớt đang xòe ra ngậm sữa, chiếc
lá yếm vừa bung vươn lên trời như những ngọn giáo không còn màu xanh non lá mạ thì
con gái. Anh Điền ngồi lên lưng trâu nhẩn nha nhấm từng hạt lúa non mang hương
vị ngọt thơm đang kỳ chín tới.
Một lần chú Nhiêu Cần
ra thăm đồng thấy rải rác những bông lúa tươi non trên bờ thửa ruộng nhà chú.
Nhìn quanh thấy anh Điền đang dắt trâu quay về, chú tóm lấy anh vung tay tát
liền mấy cái, má anh đỏ lựng. Chú giận dữ:
- Đồ "rắn
mắt", tao đã tìm ra mi là thủ phạm! Thứ con hoang, cha con Hương Biền mất
dạy!
Làng tôi ai nghe hai
tiếng "mất dạy" là nặng lắm, xúc phạm đến tông môn, dòng họ. Chuyện
đến tai bác Lý Bửng, trưởng tộc họ Trần tôi, bác sai thằng Đệ đi mời chú Nhiêu
Cần để ông hỏi cho ra ngô ra khoai.
Chú Nhiêu, tá điền của
nhà bác Lý, quê tôi gọi là cấy rẽ, thường nộp tô hết phân nửa sản lượng sau khi
thu hoạch cho chủ đất.
Chú Nhiêu Cần khép
nép:
- Thằng Điền nhà Hương
Biền tút bông lúa cho trâu ăn, tui canh me riết mới tìm ra thủ phạm, ông nghĩ
có tức không ?
Bác Lý vỗ bàn cái rầm:
- Con hư tại mẹ nhưng
sao chú nói cha con nó "mất dạy"? Cha nó lú còn chú nó khôn, dù gì
chú cũng phải nể mặt tộc họ nhà tôi chớ! Đường đường là tộc họ lớn nhất làng
ni, chú ăn nói phải ra đàng ra lối!
Chú Nhiêu thuộc phận
tôi đòi, thấp cổ bé miệng ú ớ:
- Con xin lỗi ông Lý,
con chừa...
- Mai làm mâm xôi, gà
thêm lít rượu ra nhà thờ tộc dâng hương tạ lỗi.
Chú Nhiêu Cần vốn học
trò nghèo. Đạo thánh hiền lễ nghĩa là căn gốc của cửa Khổng sân Trình. Cha mẹ
chú Nhiêu ngậm đắng nuốt cay vì thân phận của kẻ cùng đinh, dù khó khăn cũng cố
mua cho con chức Nhiêu để đở bề lao dịch.
Thỉnh thoảng khoảng độ
canh năm, bầu trời chưa hừng đông, anh Điền lén xúc trộm lúa ông Lý vác qua để
trước sân nhà chú Nhiêu, không phải anh đền bù vụ tút bông lúa ngậm sữa ngày
trước, không phải riêng cho anh Nhiêu, mà nhiều lần cho những gia đình khác.
Ông Hương phát hiện cầm gậy đánh đuổi anh Điền chạy quanh làng, miệng la chửi
thằng con "mất dạy, rắn mắt".
Giữa thập niên 60s,
chiến tranh lan dần, anh Điền hưởng ứng phong trào "ba sẳn sàng" xung
phong vào quân "Giải phóng", nghe nói sau này anh được biên chế vào
tiểu đoàn 1(R20) thuộc lực lượng vũ trang tỉnh đội Quảng Đà.
Trận tết Mậu Thân
(1968) anh cùng đồng đội tấn công vào sân bay Đà Nẵng.
Anh kể cuộc chiến ác
liệt chưa từng có, không như thời còn du kích, mình ẩn trong bóng tối thấy địch
đi ngời ngời, đưa súng ngắm tắc cù, trúng trật kệ mẹ, rồi chạy xuống hầm. Đôi
khi thực hiện kế nghi binh cho quân chủ lực.
Cuộc tấn công thất
bại, đồng đội hy sinh gần hết chỉ còn anh gãy xương ở đùi, bị bắt làm tù binh
đưa vào bệnh viện điều trị.
Lòng tận tụy của các
bác sĩ, y tá Mỹ không phân biệt địch hay ta. Theo luật quốc tế về tù binh họ
đối xử rất nhân đạo với thương binh. Giường anh nằm kế bên một người lính hay
sĩ quan gì đó ở đại đội trinh sát thuộc trung đoàn 51 biệt lập của Quảng Nam.
Anh ta kể: "Những địa danh như Cẩm Hải, Phong Thử, Phù Kỳ, Gò Nổi, Thanh
Trường, Hà Nha nổi tiếng mìn bẫy, hầm chông. Bằng những cuộc hành quân diều hâu
chớp nhoáng chúng tôi đã đột nhập ngay tận sào huyệt địch, đập tan những đơn vị
lừng danh như Đội nữ Pháo Binh Phù Kỳ, du kích Cẩm Hải, Đội Pháo 122 ly Hòa Đa
(chuyên pháo kích phi trường Đà Nẵng)".
Anh giật mình nhớ lại
thời du kích ở Điện Bàn, có khi đã "tao ngộ chiến" không chừng.
Anh thề chí vẫn kiên
trung, một lòng vì sứ mạng giải phóng dân tộc, đánh cho "Mỹ cút Ngụy
nhào". Sau khi lành vết thương anh sẽ tìm về đơn vị cũ chiến đấu đến cùng
dù phải hy sinh.
Cô Thơm làm xã đội
phó, con gái Gò Nổi đẹp mà lì, đã khiến trái tim anh Điền và bao người xao
xuyến. Sau đó không lâu, cô đã hy sinh vào khoảng tháng 3 năm 1969 khi bảo vệ
đoàn văn nghệ có nhà văn Dương Thị Xuân Quý (1941-1969) phu nhân nhà thơ Bùi
Minh Quốc tại thôn Thi Thại, xã Xuyên Tân (nay là xã Duy Thành), huyện Duy
Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Sau ngày ký kết hiệp
định Paris (1973), anh Điền được trao trả tù binh. Anh xin về khu tạm cư An Hải
ở cùng vợ con, đạp xích lô để mưu sinh.
Không biết ai khai báo
điều gì, sau năm 1975 địa phương quy kết anh vào diện chiêu hồi. Cuộc đời anh
lên bờ xuống ruộng từ đó, chú năm H, bí thư xã là anh vợ cũng không dám ra mặt
minh oan cho anh, anh buồn lòng tìm vui bằng rượu. Mỗi lần ban chủ nhiệm hợp
tác xã họp hành, anh say khướt chửi từ trên xuống dưới. Điều này khiến địa
phương gán thêm tội phá hoại cho anh, có khi do CIA cài lại không chừng.
Khoảng giữa năm 1979,
không biết anh đi Tây Ninh làm gì lại bị bắt, nghi có ý định vượt biên. Anh
được dẫn giải về địa phương.
Chiến tranh biên giới
Tây Nam giữa Việt Nam và Khmer đỏ do Pol Pot cầm đầu đã lấn sang biên giới
sát hại dân ta. Anh khẳng định:
- Biết con mẹ gì mà
vượt biên, chẳng qua anh muốn "đầu quân giết giặc". Ở đây tụi nó nghi
anh phản bội, anh làm cho tụi nó trắng mắt ra.
Công đâu không thấy
lại mang thêm tội gán vào đời anh.
Xã hội đã vậy, trong nhà vợ con càng không hiểu đã khiến anh
Điền khổ tâm, đỉnh điểm mâu thuẩn khi con trai lớn thi đỗ đại học y khoa ngoài
Huế nhưng không được nhập trường.
Anh muốn ra thành phố
chạy xe ôm, địa phương cũng không cho, sợ anh "móc nối" với kẻ địch.
Buổi sáng kia, tiếng
kẻng báo ra đồng, dân làng phát hiện anh đã treo cổ lên cành đa gần miếu Thổ
thần, xác thân còm cỏi của anh đong đưa giữa cõi trời hiu quạnh. Tôi hoàn toàn
tin những lời bộc bạch, tâm sự và lòng trung thành chế độ của anh. Anh chàng
"rắn mắt" trong cõi nhân sinh giả trá khôn lường, nhưng tôi là lính
"Ngụy".
Theo chị tám Lé:
- Ông nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà đài… đều là ông nhà “văn...g” ráo
trọi. Chị Lé thứ ba, nhưng chuyện gì chị cũng “8”, thành danh: Tám Lé.
Đọc chưa xong tờ nhật trình, tám Lé giận dữ xé làm ba làm bốn. Mới năm
ngoái, đưa lên mây, nào là “Nhân tài đất Việt”, “Doanh nhân, doanh nghiệp tiêu
biểu”, “Dự đoán xuất sắc nhịp đập công nghiệp hoá, thế kỷ 21…”. Vậy mà bây giờ
thi nhau chửi te cò bắp, đi tù vì làm ăn gian dối.
Kiểu này có bao nhiêu công lao, gia sản cũng văng, đừng nói là nhà.
Quán cà phê 'LÁ CHÁ", không
hiểu nghĩa là gì. Nhưng được cái đông khách. Báo chí đủ loại được cập nhật, đọc
thoải mái. Tám Lé ngồi thường trực, nên từ chuyện chó cán xe, xe cán chó đến
quốc gia đại sự, chị rành sáu câu.
- Nè chủ quán, ông có đọc báo không? Hai Hơn gãi đầu, lắc lắc. Thì thầm:
- Báo nào cũng viết giống y chang...
- Hôm qua ông có thấy đám ma bà Tư Cậy không? Có để ý ông Tư đi theo
quan tài, mặt ngó xuống đất mà cười mím chi không?
- Xạo, ai đời...
Tám Lé cướp lời:
- Thiệt mà, trời đánh đứa nào nói dóc, tui thấy rành rành...
- Ui bà ơi! Sau đợt tai biến suýt chết, thằng chả cứ cười hoài, có lúc
khóc mếu như con nít. Bà đúng là "8" Lé!
Cụt hứng, móc điếu Bastos bật lửa
làm một hơi.
Con bọ cạp đen thui bò vô, cái đuôi cong vòng đưa qua đưa lại như cần rà
mìn, chích vô mắt cá hai Hơn một phát, đau nhức muốn nhảy đựng, chộp trúng bả
vai tám Lé, mất đà cả hai té lăn quay nhằm ngay chóc chỗ con bọ cạp, nó lại
cong đuôi quất phát nữa ngay bắp vế tám Lé, mặt chị nhăn quéo ôm cứng hai Hơn
la như cháy nhà.
Vợ hai Hơn đi chợ về đến đầu ngõ, nhìn vô thấy hai anh chị nằm ôm xà
nẹo, thiệt tình ngay lý gian. Hai Hơn phân bua nhưng vật chứng là con bọ cạp
chui đi đâu tìm không ra.
Vợ hai Hơn lâu nay không ưa gì tám Lé, đàn bà mà ưa xía chuyện quốc sự
với đàn ông, lại thêm dáng người tròn lẵn, mắt nhìn ai cứ ướt rượt như muốn hớp
hồn người ta.
Bữa kia quán LÁ CHÁ vắng khách, vợ hai Hơn cầm nón nói dìa Cái Mơn thăm
tía. Trời kéo mây âm u, hai Hơn ngáp dài định ra khép cửa nghỉ bán, bỗng con
Tím - cháu họ vợ hai Hơn, từ ngoài đồng chạy vô đụt mưa. Nó quá lứa chưa chồng,
tính dạn dĩ tự nhiên chạy lại vòng tay ôm bụng hai Hơn, cạ bộ ngực mát rượi vào
lưng, tay chưn hai Hơn tê tái nổi da gà.
Nó cầm cái chổi quét nhà, hất mái tóc dài qua một bên, lộ ra đôi má hây
hây, lại thêm cái áo ướt dính vô ngực, khiến hai Hơn muốn nổi máu. Anh cũng làm
bộ tự nhiên, sà lại ôm eo con Tím, tóc con nhỏ thơm mùi con gái phả vô lỗ mũi
khiến hai Hơn buông tay nhìn xuống ngượng nghịu, lật đật vô nhà tròng cái quần
dài.
Thói đời, như nam châm cùng cực thì đẩy, tám Lé không ưa gì con Tím và
ngược lại. Cùng tần số dễ bắt tín hiệu, giống như những người đồng tính có lực
hấp dẫn kỳ bí với nhau. Nhưng cả hai đều có cảm tình với hai Hơn. Phải nói xóm
lò Heo chỉ có tướng hai Hơn là ngon cơm, đàn ông hơn bốn mươi sung sức, bảnh
tỏn. Nghiệt cái hai Hơn hay mặc quần đùi, mỗi lần bưng cà phê cho khách, thằng
nhỏ cứ đong đưa.
Có phải cám cảnh nhà hai Hơn đơn chiếc hay không mà con Tím hay ghé, lúc
phụ thổi lò than nấu ấm nước sôi hay cầm chổi quét từ trong ra ngoài.
Tám Lé thấy gai mắt, nói trỏng:
- Ông cởi luôn cái quần đùi cho nó giặt, tui thấy mốc thếch rồi đó!
Không biết hai Hơn có bị chạm nọc
không mà lúng túng làm đổ ly xây chừng (cafe đen), đám thợ mổ heo cười rần, phụ
họa:
- Mốc thếch cũng tại tám Lé, chớ ai vô!
Tám Lé hơi "quê", ngó ra ngoài cầu Bình Lợi, đánh trống lãng:
- Xe cộ chi thấy ớn, đua nhau chạy rầm trời!
Nhìn thấy ông già năm Pháo bước vô, thầy giáo Sum lật đật kéo ghế mời
ngồi. Những chuyện xa xưa ổng rành, có cái ổng cũng nổ văng miểng như tên của
ông. Thầy kêu dùm ly bạc xỉu, luôn tiện hỏi:
- Sao lại kêu xe cộ hả bác Năm. "Cộ" nghĩa là sao?
Ông năm Pháo lôi bịch thuốc rê, quấn
điếu chà bá đưa lên miệng lăn qua lăn lại, thong thả:
- Ngày xưa, cũng hơn cả trăm năm không chừng. Vùng này đồng không mông
quạnh, không có đường sá chi.
"Dân cư sinh sống về nghề ruộng
nương, rẫy bái, làm nghề hạ bạc (đánh cá) dọc theo sông cầu Bình Lợi, cầu Băng
Ky bây giờ. Những khoảng đất không được khai phá thì toàn là rừng chồi cây lùm
mọc rậm rạp.
Về sau, Tây lấy Gia Định rồi thì mở mang quốc lộ đi Thủ Đức và khu sát
rìa quốc lộ được Tây khai phá làm rừng cao su, không có đường mòn để xê dịch.
Dân chúng di chuyển bằng ngựa cũng không tiện chớ đừng nói chi đến dùng xe bò
hoặc xe trâu.
Mỗi khi dân cư trong vùng này muốn ra tỉnh, lúc đó là thành Gia Định, có
việc cần kíp rước thày trị bệnh hoặc tải hàng rẫy, gạo thóc ra chợ bán hoặc mua
đổi các thứ cần thiết đem về dùng… thiệt là muôn vạn khó khăn. Chỉ có những
trai tráng khoẻ mạnh mới có thể di chuyển nổi hằng mấy chục cây số đường lồi
lõm. Mà hễ mỗi lần đi như vậy thì ruộng nương, rẫy bái ở nhà lại không ai làm
lụng sản xuất. Mỗi lần đi ra thành lại mất ít nhất hai ngày – ngày đi, ngày về.
Một ngày, bỗng dưng người ta thấy trước cổng nhà của ông Ba phú hộ treo
tấm bảng lớn đề mấy chữ:
“Đảm nhận 'Cộ' người và hàng hoá đi khắp nơi".
Đồng thời ông truyền thâu dụng tất cả thanh niên vạm vỡ muốn có chuyện
làm, ngoài nghề ruộng rẫy.
“Cộ người và hàng”!
Đó là một lối tải người và hàng hoá giản tiện hơn cả võng hay kiệu.
Ông Ba phú hộ bèn cho dân đan những
tấm vạc bằng tre, hai đầu có bốn lóng tre ló ra giống như cái băng ca nhà
thương khiêng bệnh, để người đầu trước gác lên hai vai, khách thì ngồi ở vạc
tre khúc giữa thòng chân lủng lẳng để người ta “Cộ” đi. Hàng hoá thì lại để ở khoảng
giữa, thay vì tấm vạc tre đương thì nó là một miếng ván dày để có thể chất
nhiều đồ mà không bị oằn chính giữa.
Người dân muốn mướn chỉ cần cho ông Ba phú hộ hay trước, cho biết nhà
rồi sáng sớm, khi gà vừa gáy là có dân phu mang “Cộ” đến tận nhà mà rước người
hoặc “Cộ” hàng đi ra thành Gia Định. Từ đó, dân cư bắt đầu xê dịch dễ dàng,
không nhọc mệt, bận tâm, hay tốn hao người mỗi khi tải hàng đi ra thành.
Thời gian trôi qua, địa danh xuất
hiện theo miệng người cư ngụ trong vùng.
Khi hỏi:
– Ở đâu ?
Bèn đáp:
– Ở trong đồng ông Ba “Cộ”!
Dần dần, hàng trăm năm sau vùng này được mở mang nhưng là một vùng rộng
lớn, dân chúng quy tụ về càng ngày càng đông, người ta nhớ ơn ông Ba “Cộ”, nên
đặt địa danh vùng này là “Đồng ông Cộ” cho đến ngày nay".(*)
Thầy giáo Sum thong thả châm điếu thuốc, hỏi tiếp:
- Giồng "Ông Tố" là ai hả bác?
Ông năm Pháo rót ly trà nhấp giọng, kể:
- “Coi ngoài rạch Bà Nghè, dòng trắng hây hây tờ quyến trải
Ngó lên giồng Ông Tố, cây xanh
nghịt nghịt lá chàm rai”
Đó là hai câu trong bài Gia Định phú của tác giả khuyết danh viết
khoảng đầu thế kỷ 20, do nhà Nam Bộ học Vương Hồng Sển sưu tầm và chép
lại trong sách "Tập thành" của ông. Giồng là phương ngữ Nam bộ, biến
âm của từ “vồng”, tức một dải đất phù sa nổi lên ven sông, rạch tự nhiên hoặc
do bàn tay người vun xới, đắp nên những luống, những vồng để trồng trọt. Đất
vồng phù sa ven sông, rạch thường được trồng dưa gang, khoai lang, bầu, bí… Như
lời một bài hát mang âm hưởng dân ca Nam Bộ: “Trên đất giồng mình trồng khoai
lang
Trên đất giồng mình trồng dưa gang…”. Ở Nam bộ có nhiều địa danh bắt đầu
từ “giồng” như Giồng Trôm – một huyện của tỉnh Bến Tre; Giồng Riềng – một huyện
của tỉnh Kiên Giang…
Vùng đất giồng hai bên rạch Ông Tố ngày xưa một phần tự nhiên do phù sa
đắp bồi mà thành nhưng một phần cũng do bàn tay người nạo vét rạch, đào đắp nên
để trồng trọt. Họ là những lưu dân người Hoa, người Việt và người Khmer do ông
Trương Vĩnh Tố chiêu mộ đến đây vét rạch, đào kênh, lên vồng canh tác, dựng
chợ, lập ấp từ cuối thế kỷ 17. Trương Vĩnh Tố là tướng của phong trào “phản
Thanh phục Minh” thất bại, chạy từ Trung Quốc sang thần phục chúa Nguyễn, cùng
đợt với hai bại tướng khác là Trần Thượng Xuyên (tức Trần Thắng Tài) và Dương
Ngạn Địch. Hai ông Trần và Dương được chúa Nguyễn cho vào khẩn hoang, lập ấp ở
vùng đất mới chiêu nạp của Chân Lạp. Trần Thượng Xuyên dựng nên Nông Nại Đại
Phố (tức Biên Hòa ngày nay). Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến có công
thành lập Mỹ Tho (Tiền Giang). Cùng đợt này còn có Mạc Cửu đến khai khẩn vùng
Hà Tiên. Nhưng họ Mạc đến thần phục vua Chân Lạp trước, sau khi thành lập Hà
Tiên đã bị quân Xiêm đánh phá nên Mạc Cửu mới dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn,
được chúa Nguyễn phong làm tổng trấn, trấn giữ Hà Tiên.
Riêng trường hợp Trương Vĩnh Tố, do đến sau hai ông Trần, Dương vài năm,
khoảng năm 1679 được chúa Nguyễn cho đến khẩn hoang vùng đất mới toàn rừng
tràm, dừa nước “cây xanh nghịt nghịt” – bây giờ là khu vực giồng Ông Tố. Rừng
rậm lắm cọp, báo.. nước ngập nhiều cá sấu, muỗi mòng, đất lại lắm phèn, canh
tác thất bát, dân cư dần bỏ đi. Trương Vĩnh Tố buồn sinh bệnh chết, ông được
chôn cất cạnh mộ vợ trên vùng đất vồng bên bờ rạch. Con rạch từ đó mang tên:
Ông Tố. Cả vùng đất vồng hai bên rạch được gọi là giồng "Ông Tố", đọc
theo giọng Nam bộ..."(**)
Tám Lé le te:
- Bác năm đúng là pho tự điển sống, chừ con mới rành. Ở miệt mình còn
nhiều tên khác nghe lạ tai nhưng cũng có ngọn nguồn hả bác Năm?
Vợ hai Hơn nhìn tám Lé nguýt dài, lẩm bẩm:
- Thứ đàn bà gì mâm nào cũng xía vô. Dzô dziên hết sức!
Loa phóng thanh bên kia đường rè rè, nghe tiếng phát thanh viên ho nhẹ,
lấy giọng:
- Đây là tiếng nói nhân dân... đồng Ông Cộ, kính mời bà con cô bác nghe
thông tin buổi sáng...
Tám Lé phang một câu khiến thầy giáo Sum cau mày:
- Mẹ nó, sáng nào cũng điếc con ráy, báo chí tùm lum đây có ai đọc đâu
mà thông tin thông tẹo.
Đám thợ hồ nhao nhao:
- Đi cày thấy mụ nội, quởn đâu đọc báo, nghe nó nói cũng hay. Có đợt nào
nhà nước cứu trợ mình đăng ký, bà ở đó mà làm khôn.
Gần bảy giờ, còi tàu vang lên bên kia nghe hú hú, rập rình giảm tốc băng qua cầu Bình Lợi. Quán cafe "Lá Chá" khách thưa dần, thầy giáo Sum cuộn tròn tờ báo đứng lên chào bác năm Pháo. Ánh nắng ban mai vàng ươm trên đầu cây ngọn cỏ, nhìn về hướng trung tâm Saigon mặt trời đang lên, báo hiệu ngày mới sẽ rực rỡ, mang lại nguồn sống cho bao người lẫn ồn ào náo nhiệt của thành phố thân yêu.
(*)Trích “Gia Định Xưa và Nay – Huỳnh Minh
(**) https://gocxua.net/sai-gon-xua/
HOÀI NIỆM
Cô
em gái hỏi:“Anh có về không? Tối nay mẹ
với em đi tàu lửa đến ga Trà Kiệu. Mai anh em mình gặp nhau ở quê nghe anh”.
Nghe sao mà nôn nao. Thằng Tí gả con gái đầu lòng. Mới ngày nào…
Chuyến bay đã bị delay hơn ba giờ so với dự định do thời tiết. Sân bay
quốc tế Đà Nẵng về đêm sáng choang, ông Bình nhìn quanh, không một người quen.
Ông cảm thấy cô đơn giữa giòng người đón đưa trên sân ga, rồi vội vã vẫy taxi…
- Bác về
đâu?
Ông phân vân, ngập ngừng:
- Cho bác xuống phố…
Ông hướng dẫn lái xe
chạy vòng vèo, từ sân bay rẽ sang đường Nguyễn Hữu Thọ, căn nhà của ông bên kia
cửa đã đóng, ông bảo xe dừng. Cây hoàng lan tỏa vào đêm hương thơm ngát, nhưng
nay là nhà của người khác.
Rẽ trái, đường Trưng
Nữ Vương vắng lặng, đêm đã về khuya. Ngang qua chợ Mới, chợ đã dời vào sâu
trong Tứ Bang. Ngày trước, gần ngã ba Hoàng Diệu có nhà sách Mai Hoa, photo
Xuân Ảnh, đối diện tiệm bánh mì thịt nguội Tiến Thành nổi tiếng một thời, nhà thờ
Hòa Thuận kế bên lối vào trường tiểu học Hòa Vang.
Ngã ba thịt chó đây
rồi! Góc Phan Chu Trinh - Trưng Nữ Vương, gọi
“ngã ba thịt chó” vì có quán thịt chó
của ông Ng. - cha Ngọc - học cùng lớp với ông ở trường Sào Nam - của ông Thị
Tý. Sau 1954 mới có quán thịt chó này. Ông Bình
nhìn vào kiệt 1 Phan Chu Trinh, cây cột điện vẫn còn chỗ cũ, con hẻm cụt mờ mờ
ánh đèn vàng hiu hắt, những kỷ niệm thời trai trẻ ùa vào tâm trí ông.
Cách nhà ông Ng. hai căn trên đường Trưng nữ Vương là nhà hộ
sinh Bà Quế nơi ông được sinh ra, thuộc làng Nại Hiên xưa, Đà Nẵng.
Theo sách “Phủ biên
tạp lục” của Lê Quý Đôn viết năm 1776, làng Nại Hiên thuộc tổng Hòa Mỹ, huyện
Tân Phước, tỉnh Quảng Nam có đình Tổ Nại Hiên. Theo Hán Việt tự điển của Thiều
Chửu, Nại là chịu đựng (còn có nghĩa khác là xứ làm muối), Hiên là mái hiên.
Như vậy, Nại Hiên là tiền đình, chịu đựng được mưa sa, gió bão.
Năm 1744 thời chúa
Nguyễn Phúc Khoát, Nại Hiên thuộc huyện Tân Phước, đến triều Nguyễn Nại Hiên
thuộc huyện Hòa Vang, Quảng Nam. Năm 1888, Pháp buộc vua Đồng Khánh phải giao
các xã Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương, Nại Hiên để hình thành Đà
Nẵng. Năm 1901, vua Thành Thái giao tiếp phần đất một số xã thuộc huyện Diên
Phước và Hòa Vang để nới rộng thành phố Đà Nẵng.
Đình Nại Hiên bây giờ
vẫn còn hai câu đối:“Nhật xuất đông hiên
vạn vật hướng dương hàm cổ sắc/ Long hoàn tây nhạn thiên thu diễn phái ngưỡng
văn quang”(Trời mọc hướng đông, vạn vật đều quy ngưỡng, nuôi dưỡng dựng lên
muôn màu/ Rồng bay chim nhạn múa nghìn năm phát triển về hướng tây đều không
quên nơi xuất phát) - “Thánh trạch vân
nhu văn vật y quan tương thử địa/ Thần thông tạo hóa thái hòa cảnh tượng khí ư
thiên” (Đất thánh văn chương êm dịu áo mão cân đai nơi xuất xứ/ Trời cao
mầu nhiệm thái hòa tạo nên cảnh tượng chính nơi đây).
Đà
Nẵng “trong “Ô Châu cận lục” không
phải là một địa danh hành chính mà chỉ là tên gọi của một cửa biển. Inrasara (tức
Phú Trạm, nhà thơ và nhà nghiên cứu văn hoá Chăm) cho rằng Đà Nẵng là biến dạng
của từ Chăm cổ Đaknan. Đak có nghĩa là nước, nan hay nưn,
tức Ianưng là rộng. Địa danh Đaknan hàm ý chỉ vùng sông nước rộng mênh mông ở
cửa sông Hàn, tất các biến thể của ngôn ngữ Chăm Pa từ “Da Năng”
thành Ênang, Ch'nang,
R’nang trong ngôn ngữ Chăm, Gia Rai, Ê đê, Raglai ngày nay đêu mang
nghĩa là bình yên, thanh bình. Kampong
Danang tức là “Bến sông thanh bình”. Từ năm 1888 cho đến hết
thời Pháp thuộc, Tourane là
tên chính thức của Đà Nẵng
Con đường Phan Chu Trinh rợp bóng cây kiền kiền
cao tít tắp. Những trưa hè cả nhà trải chiếu quây quần dưới gốc cây, người lớn
cầm quạt phe phẩy kể chuyện làng chuyện xóm, chuyện đông tây kim cổ, Lục Vân
Tiên,Thạch Sanh Lý Thông…
Cuối
kiệt 1 có con hẻm nhỏ nép dưới hàng tre râm mát dẫn qua trường tiểu học Sào
Nam.
Từ ngã ba “thịt chó” theo đường Phan Chu Trinh xuôi về trung tâm thành phố,
cách nhà cha ông khoảng hơn trăm mét đến kiệt vào chùa Diệu Pháp thông ra đường
Hoàng Diệu. Bên kia đường là nhà thương Phao-lồ,
trường Thọ Nhơn của người Hoa. Phía đối diện có chùa Phổ Đà cổ kính vọng tiếng kinh ru hồn ông bay theo mùi hoa sứ, hương
thơm ngát thoang thoảng trong không gian mơ hồ.
Trường Thọ Nhơn đã
mang tên khác.
Ngã ba Phan Chu Trinh – Chu văn An có quán
cà phê Quỳnh Châu với cô chủ quán đẹp ngất trời mây,
cà phê Quỳnh Châu không còn dấu tích, nay là nhà trẻ HH.
Bà ngoại mỗi đêm hay dắt ông đi coi hát
bội tại rạp Hoà Bình (Nguyễn Hiển Dĩnh).
Ông khóc theo bà khi gặp cảnh éo le, ông cười ngặt nghẽo khi anh hề làm trò.
Qua ngã năm đến rạp ciné Lido, nhà hát Trưng Vương. Băng qua Hùng Vương là
đường Lê Lợi, đến trường nữ trung học Hồng Đức, trường Phan Chu Trinh, Phan
Thanh Giản, nam tiểu học, bán công Nguyễn Công Trứ, thẳng đến đường Đống Đa,
khu Thanh Bồ-Đức Lợi của những người Bắc di cư và bờ biển Thanh Bình với ngút
ngàn phi lao reo vui trong gió.
Nhừng đêm trăng cả con trai con gái kéo
nhau ra khoảng sân rộng trước nhà ông chơi trò “bịt mắt bắt dê”, có khi ông túm trúng ngực một em, đôi gò bồng đảo
mới nhú khiến ông cảm thấy lòng lâng lâng…
Nơi đây, bà đã tặng
ông tình yêu đầu đời. Nhà bà đối diện nhà ông, những lần đón đưa tan trường...
Nhà ngoại, nhà dì, bao người bà con hàng xóm thân thương đâu rồi, ông cảm thấy
mình như Từ Thức, xa cách mấy trăm năm.
Anh lái xe im lặng
nhìn ông, khi dừng khi chạy, ánh mắt ông già đăm chiêu đôi lúc thở dài. Anh cảm
thông với kẻ ly hương, hình như đã lâu lắm rồi ông không trở lại chốn xưa, nghe
ông lẩm bẩm những cái tên thật lạ lẫm với anh, dù anh sinh ra và lớn lên ngay
tại thành phố này. Nỗi u hoài của ông khiến lòng anh cảm thấy bùi ngùi.
Gia đình ông tản cư ra
Đà Nẵng, khu An Cư dựng tạm đón dân làng. Gió từ biển Mỹ Khê lùa vào mang theo
vị mặn trộn lẫn với nền cát dưới chân hừng hực lửa.
Trường lạ, bạn mới. Ngỡ
ngàng thua thiệt lúc ban đầu dần hồi tan biến. Các thầy cô đã ân cần dìu dắt,
có phần thương yêu hơn dành cho lũ trẻ chạy giặc.
Từ ngã tư Lê Đình
Dương rẽ phải về Cổ Viện Chàm, ông hạ cửa kính xe để nhìn cho rõ. Ngôi trường
Sao Mai, nơi lưu giữ bao kỷ niệm thời thơ dại của ông đã không còn nữa.
Ông Bình hình như
nhìn thấy chiếc bóng mình lẻ loi trải dài vào tận sân trường, nơi những chiếc
áo thụng đen của các Cha, các Thầy phất phơ, bước khoan thai vào lớp.
Bánh bèo Quan Thuế ở
đường Bạch Đằng, bên bờ sông Hàn lộng gió, đục ngầu lững lờ trôi. Cầu Rồng soi
bóng lung linh, dưới ánh đèn muôn màu rực rỡ. Anh lái xe ho nhẹ. Ông muốn đi
dọc sông Hàn, Hà Thân (Q.3) bên kia sông
đã không còn màu xanh “như tàu lá” của làng chài heo hút năm xưa, nay đã
được thay bởi những tòa nhà cao ốc nguy
nga, bừng sáng cả một góc trời.
Mỗi ngày, từ chiếc đò
ngang An Hải, biết bao nhiêu tà áo trắng, học sinh trường Đông Giang, Phan Chu
Trinh, Phan Thanh Giản, Sao Mai, Bồ Đề, Nguyễn Công Trứ… đi về sớm tối. Những lần trễ đò, ông lang thang dọc sông Hàn
qua cầu Trịnh Minh Thế (cầu Trần Thị Lý),
gió sông lành lạnh, xô dạt đong đưa.
Những chiếc cầu nối đôi bờ đã thay da đổi thịt cho Hà Thân, An Hải.
“Đứng bên ni Hàn, Ngó
bên tê Hà Thân, Nước xanh như tàu lá,
Đứng bên tê Hà Thân,
Ngó về Hàn, phố xá nghênh ngang,
Kể từ ngày Tây lại đất
Hàn,
Đào sông Cầu Nhí, bòn
vàng Bồng Miêu,
Dặn lòng ai dỗ đừng
xiêu,
Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau” (ca dao)
Bình minh đã ửng
hồng, biển Thanh Bình phẳng lì như tấm lụa xanh thẳm, Hải Vân quan mờ mịt trong
mây, bên Tiên Sa thấp thoáng những chiếc tàu nhấp nhô trên sóng, ông chợt nhớ
những lần tuần duyên...
Em - chim non - giữa mùa giông bão
Tan tác trời mây run rẩy bay
Đường xa thấp thoáng dòng ly biệt
Quê hương ngậm ngùi trong mắt cay
Mỹ Khê này em - tôi yêu em
Cát trắng hồn nhiên sóng dịu hiền
Ta - cố nhân chừ như khách lạ
Một đời phiêu bạt với truân chuyên
Tiên Sa này em - tôi xa
em
Tuần dương sóng bạc nhớ môi mềm
Sao Mai lấp lánh về phương nớ
Bắc đẩu tìm đâu trong sương đêm
Ngũ Hành năm ngọn xa vời
vợi
"Đệ nhất hùng quan" chẳng lối về
" Nhật mộ hương quan hà xứ thị..."
Chập chùng muôn dặm nẽo sơn khê
Lại một Xuân về -
em có hay
Nam Ô này em - rừng dương say
Vi vu thổi mất tình trong mắt
Đà Nẵng này em - mưa bụi bay
(Hương xưa – PNCU)
Ông Bình không khỏi ngỡ
ngàng khi đứng trên cầu vượt ngã ba Huế nhìn về thành phố Đà Nẵng. Thành phố
yêu thương của ông, ông không thể hình dung… Ông nhớ cảnh mùa đông miền Trung
mưa rả rích suốt ngày đêm kèm theo những cơn gió heo may se lạnh, tay ủ trong
tà áo trắng bay đã không còn nữa. Đường phố hối hả với người và xe vun vút.
Lòng người cũng đã vô tình hơn với ngay cả chính mình.
Chiếc xe mượn được từ
V. đã đưa ông thong thả về quê. Dọc đường từ ngã ba Huế đi về hướng Nam, bên
phải dọc theo đường rầy xe lửa, bên trái là khu nhà của giáo xứ Phước Tường nay
đã thành những dinh thự nguy nga. Sau 1954, giáo dân từ miền Bắc di cư vào miền Trung, họ tạm cư ven quốc lộ 1, giáo xứ Phước Tường với những lán trại cạnh vành đai sân bay Đà Nẵng...
Mùa hè năm 1958, Cha
Quản xứ Simon Đinh Hưng Lợi cho xây trường Lê Bảo Tịnh (trường cấp 2 Nguyễn Đình Chiểu). Năm 1963,
Cha Simon xây lại nhà thờ họ Đông Phước (tức là nhà thờ giáo họ Thánh Tâm, gần
sát cầu vượt Hòa Cầm hiện nay). Nhà thờ họ Thánh Tâm (Đông Phước) nay cũng
không còn nữa.
Ngang ngã ba Hòa Cầm
nhìn về Bà Nà núi Chúa mờ mịt trong mây. Bà Nà Hill đã trở thành khu du lịch
nổi tiếng sánh ngang cùng Sapa, Đà Lạt về khí hậu ôn hòa. Qua cầu Đỏ, Phong Nam - Hoà Châu ẩn sau màu
xanh của rừng tre bạt ngàn. Làng Phong Lệ (Cẩm Lệ) quê hương ông Ông Ích Khiêm,
văn võ song toàn, tính tình ông bộc trực tuy hơi ngang bướng.
“Ngươi (Ông Ích Khiêm) vốn là người học thức
mà ra, phải cái tính khí cương cường nóng nảy, phàm việc không chịu ở sau người…Việc
ngươi đánh dẹp bọn phỉ ở tỉnh Bắc, khí tiết, công lao, trẫm đều rõ hết…Thế mà gần
đây được tin là ngươi đến đâu phần nhiều dung túng cho quân sĩ làm càn. Nếu quả
thực như vậy thời dân còn trông mong gì nữa!...Nếu ngươi còn hối cải để khỏi phụ
cái ơn tri ngộ, thì là điều mà trẫm rất mong mỏi. Bằng cứ còn võ biền, quên lời
ân cần dạy bảo, thời trẫm phó mặc ngươi cho công luân triều đình, dù ngươi có
tài cũng không tha luôn mãi được...”(Lời vua
Tự Đức).
Cháu nội ông là Ông Ích Đường, con ông Ông Ích Kiền (Tán nhì), một nghĩa
sĩ trong Nghĩa hội Cần Vương.
Ông Ích Đường bị bắt
và bị chém chết tại chợ Túy Loan (nay thuộc xã Hòa Khương, huyện Hòa
Vang).Tại nơi hành hình, ông ung dung nói: "Dân nước Nam như cỏ
cú, giết Đường này còn có trăm nghìn Đường khác. Bao giờ hết mía mới hết Đường!".
Vì vậy, người dân đã quyên tiền lập miếu thờ "Cậu Đường" với hai câu
đối điếu đề trước cửa miếu:"Tinh thần
thiên bất tử/ Nghĩa khí thế trường sanh" (Tinh thần còn mãi mãi, Nghĩa
khí sống đời đời).
Ngã ba Cẩm Lệ - Chợ Miếu Bông điểm giao giữa QL.1A và đường Phạm Hùng - hướng về trung tâm
thành phố Đà Nẵng, Cẩm Lệ thuộc địa phận xã Hòa Phước - huyện Hòa Vang. Nhìn về
hướng tây, đường vào thôn Quan Châu nép mình dưới bóng tre xanh, nơi bánh khô
mè nổi tiếng của một miền quê đã vang danh xứ người.
Qua khỏi cầu Quá Giáng, nhà thờ chư phái tộc
Quá Giáng được xây dựng từ năm 1821 thờ Quan Thánh và các vị tiền hiền của bốn
tộc Đinh, Lê, Trần, Nguyễn, những người có công theo chúa Nguyễn vào Nam khai
phá lập nên làng Quá Giáng xưa bao gồm vùng Quá Giáng, Giáng Nam, Trà Kiểm, An
Lưu và xóm Cồn Mong.
Ông Bình nhớ thời đi học ở trường Nguyễn
Duy Hiệu (Vĩnh Điện-Điện Bàn), cuối tuần ông đạp xe ra Đà Nẵng, quê ngoại ông ở
gần bến đò Xu (nay là cầu Hoà Xuân), những chuyến đò ngang qua sông Cẩm Lệ chở tuổi
thơ ông sớm tối đi về.
Hòa Vang với những tên làng thân thương: Lỗ
Giáng, Trung Lương, Tùng Lâm, Cổ Mân, Liêm Lạc, Cồn Dầu, Cẩm Chánh… gợi trong
ông niềm u hoài một thời xa lắc.
Thời Pháp thuộc, làng Lỗ Giáng có ông Hồ Đắc
Dĩnh làm chánh tổng An Lưu. Năm 1930, ông Dĩnh đã xin Pháp cho huy động dân đắp
con đường cái quan từ Quán Đoi (giáp Hòa Châu) xuống cuối làng Lỗ Giáng. Từ cầu
Cẩm Lệ xuống Cồn Dầu rẽ về Lỗ Giáng, Trung Lương qua đò Khuê Đông, con đường chạy
từ quán Đoi xuống Lỗ Giáng, qua Tùng Lâm, xuống đò Mân Quang, sang Hòa Quý. Từ
Miếu Bông qua Liêm Lạc xuống Cổ Mân qua Lỗ Giáng thẳng xuống Trung Lương qua đò
Xu vào Đà Nẵng.
Quê ngoại ông bên những dòng sông: Từ Tuý
Loan, sông Cẩm Lệ chảy về Cồn Nổi, nhánh kia từ Vĩnh Điện đến sông Cổ Mân qua
Tùng Lâm, Trung Lương rồi hợp lưu với sông Cẩm Lệ tại Cồn Nổi đổ ra sông Hàn.
Ông ngoại có ghe bầu
ngược xuôi thương hồ. Tơ lụa, quế, hồi xứ Quảng đổi trao thổ sản miền Nam, cá
mòi Phan Thiết. Đây là loại thuyền mũi và lái đều
nhọn, bụng bầu, độ ngấn nước sâu, nên thuyền có khả năng ra khơi xa. Thuyền
dùng loại buồm hình tứ giác hay cánh dơi. Mắt thuyền khắc hình dài, trước tròn,
đuôi mắt dài nhọn... Chính nhờ loại ghe bầu này mà người dân Xứ Quảng có thể
vươn ra khơi xa để đánh bắt cá, đặc biệt là việc tổ chức đội lính Hoàng Sa, có
thể dùng thuyền ra chiếm cứ và canh phòng đảo cách xa đất liền.
Những người dân đôn hậu, đã quên mất làng
nghề. Những cánh đồng ngút ngàn cây trái, lúa ngô, vườn rau biến mất, nhường chỗ
cho khu đô thị sinh thái không có cây
xanh. Những người dân tay lấm chân bùn, nhớ cày nhớ cuốc, ngồi bó rọ buồn hiu
trong những căn hộ tái định cư, vô công rỗi nghề…
Ông
Bình đi trong mộng mị, nắng trưa gay gắt hình như cũng dịu đi, theo dòng suy tưởng
của ông.
Qua
Thanh Quýt, ông nhớ những người bạn cũ, kẻ còn người mất, những người bạn họ Đỗ, họ Lê Tự… còn đâu đó. Ông Bình dừng chân, nhìn về cánh đồng làng Phong Ngũ,
những gốc rạ sau mùa gặt vàng hoe, xơ xác. Cổng đình làng Phong Lục rêu
phong, Đỗ Diện còm cỏi trên chiếc xe đạp
một thời trơ khung, chân đất. Lăn theo dòng đời, lưu lạc…
Đến làng Phong
Nhị, nhớ ngôi nhà chênh vênh trên gò đất, giữa đồng của Nguyễn Chung (nhà thơ Nguyễn Hàn Chung). Phong Nhứt
của Thân Tám (Thân Hùng – đã mất).
Làng Đông Hồ với Dương Thanh Thu (Thu Dèo),
nay khốn khó ngồi vá xe máy bên đường, mịt mù khói bụi. Rẽ trái cầu Giáp Ba đến
nhà Nguyễn Đình Ký, nhà thơ lặng thầm bên dòng sông lấp, bây giờ đã nặng tai.
Làng Ngọc Tam, Ngọc Tứ giáp Hạ Nông, quê ông…
Ông Bình lặng
người nhìn dòng sông Vĩnh Điện lững lờ trôi, bóng mây chìm nổi ẩn hiện bóng
dáng tuổi thơ ông, bạn bè ông dưới mái trường trung học Nguyễn Duy Hiệu ngày
nào.
Vĩnh Điện, chính
nơi này. Nhiều nhà thơ, nhạc sĩ nổi tiếng một thời như nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn,
La Hối, nhà thơ Luân Hoán (Lê Ngọc Châu),
Hoàng Lộc, Phan Duy Nhân (Phan Chánh Dinh),
Vương Thanh, Đynh Trầm Ca (Mạc Phụ),
Phạm Ngọc Lư, Mang Viên Long, Vũ Hữu Định, Vũ Đức Sao Biển (Võ Hợi) Đoàn Huy Giao, Nguyễn Hàn Chung…
đã từng được sinh ra , đến dạy học hoặc là điểm dừng chân sáng tác hay nơi cư
ngụ của hàng chục người cầm bút lúc mười tám, đôi mươi... Họ đã có bài đăng
trên các tạp chí văn nghệ nổi tiếng của Sài Gòn như Văn, Sáng Tạo, Văn Học, Đối
Diện, Khởi Hành, Ý Thức...
Thôn Bồng Lai, làng La Qua (Điện Minh,
Điện Bàn), nơi có dòng họ Nguyễn Nho tài hoa: Các nhà thơ Nguyễn Nho Sa Mạc (Nguyễn Nho Bửu 1944-1964), Nguyễn Nho Nhượn…
Vườn mai dưới
nắng xuân vàng rực của Phạm Văn Đức. Ông Bình nhớ thời ngớ ngẩn đạp xe băng
băng đến ngôi nhà ngói cổ kính thâm nâu của cô bé Nguyễn Thị D. có hàng cau cao vút. Lặng lẽ nhìn, rồi lặng
lẽ quay về.
“Rằng xa, ngoài ngõ
cũng xa
Rằng gần Vĩnh Điện,
La Qua cũng gần”(ca dao)
Điện Phương nổi tiếng các làng nghề truyền thống
như đúc đồng, gốm, gỗ mỹ nghệ, dệt chiếu, mỳ Quảng Phú Chiêm, bê thui Cầu Mống,
khu du lịch Bồ Bồ....
Giữa hai sông Vĩnh Điện và Thu Bồn, từng
là thủ phủ của Quảng Nam xưa. Dinh trấn Thanh Chiêm thời chúa Nguyễn
(1558-1775) và thành tỉnh Quảng Nam thời nhà Nguyễn (1802-1945), thương cảng
Hội An sầm uất và những làng nghề nổi tiếng như đúc đồng - Phước Kiều, mộc -
Kim Bồng…
Ông Bình thẫn thờ quay
ngược xe. Qua khỏi cầu Vĩnh Điện, rẽ trái về quê ông. Đối diện cổng trường
Nguyễn Duy Hiệu, ngày xưa là cánh đồng Điện An, ruộng lúa xanh ngát, nay đã
thành chợ mới Vĩnh Điện. Lồng chợ hai tầng nguy nga, đầy ắp hàng hoá, những con
đường nhựa thẳng tắp như phố thị, nhà của chị em Trần Thị… chỉ còn lại mái tole
cũ kỹ, bị che khuất bởi những nhà cao tầng, mất dấu chân người khi đô thị hoá.
Trường bán công Nguyễn Duy Hiệu được thành
lập từ năm 1958, thầy Hồ Đài hiệu trưởng, thầy Lê Văn Đa giám học. Ngôi trường
trung học đầu tiên ở thị trấn Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn. Như GSTS Trần Văn Thọ
đã một lần tâm sự: “Nếu không có trường
Nguyễn Duy Hiệu, thế hệ chúng tôi sẽ thất học, đa số con nhà nghèo không thể đi
xuống Hội An hay ra Đà Nẵng trọ học…”
Ngôi trường chỉ có bốn lớp Thất, Lục, Ngũ,
Tứ nhưng đã quy tụ nhiều thầy cô có tấm lòng nhân hậu và mô phạm. Đến bây giờ mỗi
lần nhắc đến, ông vẫn một lòng kính mến và trân trọng: Thầy Nguyễn Phú Long (nhà thơ Hoàng Thị Bích Ni - Dịch giả Nguyễn
Kim Phượng), thầy Phan Chánh Dinh (nhà
thơ Phan Duy Nhân), cô Dương Thị Ngân Hà (Phu nhân thầy Phan Chánh Dinh) dạy văn, thầy Trần Văn Tường, thầy
Võ Toàn Trung dạy toán lý hóa, thầy (nhạc
sĩ) Lê Trọng Nguyễn dạy âm nhạc, cô Bích Ngọc dạy sử địa, thầy (nhà văn) Vương Thanh, sau này có thầy (nhà thơ) Hoàng Lộc…
Cuối năm, trường công lập Điện Bàn thành lập
(1962) do thầy Dung làm hiệu trưởng.
Năm Đệ Thất (1962-1963) thật nhiều kỷ niệm. Lớp
Anh văn khoảng hơn bốn mươi người, cả gái lẫn trai. Số bạn ông còn nhớ như Nguyễn
Đình Ký, Đỗ Diện, Phạm Văn Đức, Lê vĩnh Hoè, Phạm Phú Cừ, Khúc Thừa Thế, Nguyễn
Văn Diên (mất 1965), Lê Viết Hoàng, Hồ Nên, Lê Tự Mộng, Lê Tự Trập, Nguyễn Văn
Rô (mất 2013), Lê Tự Thắng, Lê Tự Mầu, Nguyễn Trần Thị Xuân Bạch Tuyết, Lê Thị
Liễu, Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Chung (nhà
thơ Nguyễn Hàn Chung), Trương Văn Chức, Lê Thị Phước, Nguyễn Thị Diêu, Trần
Thị Cương, Nguyễn Thị Mười (Dung), Lê Bá Đại, Trần Lý, Nguyễn Thị Dơi,
Phan Tấn Ngọc (Phan Thanh Dũng), Phan Xuân Dũng, Dương Dèo (Dương Thanh
Thu), Nguyễn Văn Tục, Trần Thị Thôi, Phan Đức Liên, Nguyến Tám (Hội),
Thân Tám, Cù Tân, Thân An, Lê Minh Tá…
Năm Đệ Lục có Phan Thị
Tuyết Hoa, cô bé xinh xinh, con gái làng Bảo An. Có lẽ con cháu cụ Phan Khôi?
Cuối năm làm bích
báo, Nguyễn Hàn Chung, Nguyễn Văn Diên, Nguyễn Đình Ký và ông gom bài của các bạn,
chọn bài, trang trí. Có mấy bạn “đạo”
thơ văn, dù lúc đó không biết của ai nhưng rõ ràng không phải của… bạn ấy!
Cô Ngân Hà đọc bài
thơ : “An Ký Chung Mầu Tá Dục Sinh – Châu Diên Diêu Dũng Tuyết, Hoa,
Anh …” Cô bảo: “Bình làm thơ ghép tên các bạn hay quá!” Ông còn định
cóp cả thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê nhưng sợ cô biết, nên thôi…
Ông thích thơ Bích
Khê, Đinh Hùng, Hàn Mặc Tử, Quang Dũng, Vũ Hoàng Chương… Trong thời gian này,
thầy cô khuyến khích đọc các tác phẩm của Tự
Lực Văn Đoàn. Thầy Phan Chánh Dinh ra đề: Anh chị hãy viết tiếp truyện “Anh
phải sống” của Khái Hưng. Ông bê nguyên cả đoạn kết “Bên Dòng Sông Trẹm” của Dương Hà vào bài
văn, ông cho Cái Nhớn đi theo dòng nước lũ sông Hồng:“… Mưa vẫn to gió vẫn lớn,
mọi người âm thầm rảo bước để tiễn đưa Cái Nhớn về nơi an nghỉ… nghìn đời“. Thầy
Phan Chánh Dinh khoanh tròn bằng bút đỏ!
Trưa học về, đạp xe qua tiệm sách Thời Nay bên kia cầu Vĩnh Điện, ông mua giấy pơ-luya hồng, mượn thơ Hàn Mặc Tử viết lưu bút cho bạn gái:
“Chữa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn anh theo dõi bóng em đi
Hồn anh sẽ nhập trong luồng gió
Lưu luyến bên em chẳng nói gì…”
Thầy
Phan Chánh Dinh (Nhà thơ Phan Duy Nhân) trích giảng bài học đầu
tiên:
“Này gã trai tơ,
sách chật năm ngăn, mộng ứ rương hòm, tôi xin giao lại cái giang sơn thơ mộng
cho người. Mà gọi làm chi khác tình vậy nhỉ! Ở trong tuổi đẹp, chúng ta để là bầu
bạn: giang sơn tuổi nhỏ, này anh giao lại cho em.
Hai tay em đang đầy hoa lộc của đời, những hoa lộc phong một
lớp sương mờ, như một trái quà phong màng giấy xanh. Em mở ra cho trân trọng!
Em có mười sáu tuổi chỉ một lần, em không có đến hai lần cái tuổi hai mươi, em
chẳng bao giờ có lại tuổi mười tám. Em chỉ có một tuổi vui, em sẽ có một trăm
năm buồn; tất cả đều tùy em đó, xấu đẹp ở tại lòng em.
…………
Em mười lăm tuổi, em tuổi hai mươi! đừng để
mất một cái gì mà không hưởng. Em tưởng sau này em lớn, đi chơi bời mà là hưởng
sao? Những cái ấy để cho bọn giác quan què quặt, tâm trí ngu đần, ta, thiếu
niên, có thể không mất một xu mà hưởng hết của trời. " Say là say nghĩa,
say nhơn, say chung Lý Bạch, say đờn Bá Nha " chứ há có say cái thứ rượu tồi
mạt của Lưu Linh!”
………….
(Xuân Diệu – Giao lại)
Quê ông nghèo,
đa số đi học chân không dép, chạy vội về nhà sau giờ tan học. Con trâu, cái cuốc,
cái liềm chờ sẵn trong sân. Chỉ có ông Giang Nam mới nghĩ: “Ai bảo chăn trâu là khổ”. Chiều mùa đông
rét mướt, chiếc tơi lá không che đủ hai tay. Tiếng ùng oàng từ Bà Nà, núi Chúa
vọng về, dòng sông Vĩnh Điện đục ngầu bồng bềnh những thân người bị trói ké, úp
mặt trôi theo dòng sông ra biển. Tuổi thơ ông nhiều bạn vắng dần, ra đi khi
chưa đủ lớn, rồi đi mãi không về.
“Ông tha mà bà chẳng tha, hành cho cái lụt
hăm ba tháng mười”. Bão Hagupit tàn phá gãy đổ cây
đa đầu làng, xiêu vẹo những ngôi nhà tranh vách đất, chưa kịp chống lại, trận lụt
năm Giáp Thìn 1964 cuốn phăng đi. Con sáo yêu thương chết cóng tự lúc nào đưa
hai chân co quắp lên trời. Tuổi thơ ông trôi theo dòng lũ dữ. Không ai giao lại
tuổi thơ cho ông, chênh vênh giữa hai bờ…
Rồi
một ngày, con đường nhựa quê ông bị băm nát, nham nhở. Những buổi chiều ngóng
về như xa xôi ngàn dặm, chỉ còn được nhìn theo những áng mây bay. Nhà ông đâu
có “khuất bóng hoàng hôn” mà nghe
chừng như “trên sông khói sóng cho buồn
lòng ai”.
Lễ Phật đản 1963, chùa Hạ Nông không một bóng cờ. Bác Xứng tụng kinh cầu
an, cầu siêu.
Dần
– anh em chú bác với ông, rủ về quê ăn khoai lang nướng, mẹ nó mới đào. Hai đứa
đạp xe qua khỏi tháp Bằng An, gần đến ngõ Nghè Mai - Chánh Chước đã nghe rộ tiếng
súng. Mấy người gánh lá dâu băng qua đường chạy về hướng thôn Nông Sơn… Dần nói
đó là quân Giải Phóng.
Những
ngày mùa đông buồn da diết, tan trường Thân Tám (Thân Hùng – đã mất 2009) kéo nhau qua bến xe Vĩnh Điện coi xác Việt
Cộng mới bị bắn chết. Bỗng nó khóc oà, đó là chú nó! Không khí chiến tranh tràn
vào lớp học, Dần, Bảy, Diên theo anh Đông làm du kích, lớp học thưa dần…
Thầy Phan Chánh Dinh (Phan Duy Nhân) dạy bài cuối cùng, bài thơ: “Nhà tôi” của Yên Thao:
Tôi đứng bên này sông
Bên kia vùng địch đóng
Làng tôi đấy, sạm đen màu tiết đọng
Tre, cau buồn rũ ướt mưa sương
Màu trắng vôi lôm lốp mấy khung tường
Nếp đình xưa người hỡi, đau gì không ?
……….
Quê
ông chìm trong khói lửa, máy bay ném bom tan tành ba cây đa cổ thụ. Cô dượng
Ngũ ra đồng, cà nông rơi trúng hầm, xác bốn đứa con không đứa nào còn nguyên vẹn.
Chùa Hạ Nông vắng dần thiện nam tín nữ, bác Xứng vẫn chiều chiều dộng
chuông thinh không vang vọng cõi trần ai…
Những
buổi chiều tan học sân trường vắng hoe. Thỉnh thoảng cô bạn học xinh xinh, trọ
bên kia đường, mang áo quần xuống giặt ở bến sông trước nhà trọ. Lòng ông bâng
khuâng, không nói nên lời…
Đầu đường ĐT609, hướng
về Ái Nghĩa. Quán cơm, mì Quảng cô Tám ngày xưa, nay đã chuyển giao cho con gái
út, bán bún bò Huế. Học xa nhà, ông Bình được mẹ gói cơm lá chuối với cá rô
đồng kho mặn hoặc muối mè, đậu phụng ăn trưa. Thỉnh thoảng ông được cùng cậu Lê
Văn Đa – Giám thị trường Nguyễn Duy Hiệu, thầy Trần Văn Tường, thầy Phan Chánh
Dinh, Cô Dương Thị Ngân Hà, thầy Vương Thanh… dùng cơm trưa quán cô Tám.
Ông Bình dừng lại - Bến
Đá. Ngày ấy, những chiếc ghe thương hồ ngược xuôi, dừng chân neo đậu nơi này.
Tan học, ông cùng Nguyễn Văn Diên, Nguyễn Văn Dần, Lê Viết Nem (Hoàng), Phạm Phú Cừ, Khúc Thừa Thế… cởi
truồng tắm sông, ngụp lặn có lần suýt chết dưới đáy ghe. Nhà Phan Xuân Dũng đây
rồi, nhà trọ của Phan Thị… chỉ còn “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch
dương” (Thăng Long thành hoài
cổ - Bà Huyện Thanh Quan).
Ngang Tháp cổ Bằng An, tháp
Chăm duy nhất còn lại hình bát giác, tháp có hình
Linga tượng trưng cho thần Shiva – một trong những hình ảnh thiêng liêng nhất của
mặt trời, theo quan niệm của người Chăm-pa. Trước cửa có tượng hai con thú, gọi
là Gajasimha, hình nửa như sư tử nhưng lại có vòi ngắn quay lên trên, mỗi con đều
có cái diềm đeo cổ. Như các tháp Chăm khác, tháp Bằng An cũng quay cửa về hướng
Đông để đón ánh mặt trời.
Tháp
trầm mặc u buồn. Nhìn khung cảnh nhếch nhác tưởng chừng như hoang phế, ông chạnh
lòng nhớ về Công chúa Huyền Trân…
“Tiếc thay cây
quế giữa rừng/ Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo” (ca dao)
“Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần
Nhân Tông được Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân mời
vào thăm và tiếp đãi nồng hậu. Khi ra về, Thái thượng hoàng có hứa gả con gái
cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có chính thất là Vương hậu Tapasi,
người Java (Indonesia ngày nay). Sau đó nhiều lần, Chế Mân cử sứ sang
hỏi về việc hôn lễ, nhưng nhiều quan lại nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc
vương Trần Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc
Chung chủ trương tán thành.
Tháng 6, năm Bính Ngọ, Hưng Long năm
thứ 14 (1306), Chúa Chiêm Thành là Chế Mân dâng hai châu Ô, Rý
(còn gọi là Lý) làm hồi môn, vua Trần Anh Tông khi đó mới đồng ý gả Công
chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Công chúa khi về Chiêm Thành, được phong
làm Vương hậu thứ 2 với phong hiệu là Paramecvari.
Tháng 5, năm Đinh Mùi (1307),
quốc vương Chế Mân băng hà. Thế tử Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc
Kê sang dâng voi trắng và báo tang.
Theo Đại Việt sử ký chép
lại, Trần Anh Tông nghe rằng: Theo tục
nước Chiêm, Quốc vương chết thì Vương hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn táng.
Trần Anh Tông liền cử Hành khiển Trần Khắc Chung sang viếng tang và
tìm cách cứu công chúa. Trần Khắc Chung cứu được công chúa và đưa xuống thuyền.
Cuộc hải hành kéo dài tới một năm và theo Đại Việt sử ký toàn thư thì Trần
Khắc Chung đã tư thông với công chúa.
Sau khi công chúa Huyền Trân trở
về Thăng Long, theo di mệnh của Thái Thượng hoàng, bà xuất gia ở núi Trâu
Sơn (nay thuộc Bắc Ninh). Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban
pháp danh Hương Tràng.
Cuối năm Tân Hợi (1311), Hương
Tràng cùng một thị nữ đã quy y đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay
thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau đó, am tranh trở
thành điện Phật, tức chùa Nộm Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm
Tự.
Bà mất ngày mồng 9 tháng
giêng năm Canh Thìn (1340). Dân chúng quanh vùng thương tiếc và
tôn bà là Thần Mẫu và lập đền thờ cạnh chùa Nộm Sơn. Nhớ ngày
công chúa mất, hàng năm trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong
ở Huế.
Các triều đại sau đều sắc phong công chúa
Huyền Trân là thần hộ quốc. Nhà Nguyễn ban chiếu ghi nhận công lao
của công chúa Huyền Trân "trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh
ứng", nâng bậc tăng là "Trai
Tĩnh Trung Đẳng Thần".
(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/)
Ông Bình nhìn về phía
đối diện tháp Bằng An, ngôi trường tiểu học Vĩnh Hoà (Điện An) năm xưa, nay là
trường Phan Thành Tài bề thế.
Ông Bình sực nhớ chuyện
ông làm chủ hôn “chạy làng” năm 1979. Trong một lần chú D. chở khung xe đạp đi sơn ở Vĩnh Điện gặp cô Tr.
Cô Tr. gái thành phố, theo cha mẹ về quê. Cô dạy tại trường tiểu học Điện An
(nay là trường Phan Thành Tài), không biết chú D. tán tỉnh thế nào, hôm sau cô
đạp xe mini lên nhờ chú D. sửa giúp. Họ đã bén duyên nhau, nhưng mẹ chú D.
không tán thành!
Họ
tự tổ chức thành hôn, trên sân trường tiểu học này. Mùa hè vắng hoe, bên nhà
gái không người thân. Những thầy cô giáo đồng nghiệp phụ giúp, trang điểm cô
dâu bằng màu son hoa phượng. Thầy hiệu trưởng Th. tuyên bố lý do, ánh mắt yêu
thương nồng cháy của tân lang và tân giai nhân lấp lánh, hạnh phúc và làm dịu
mát những tia nắng của buổi trưa hè.
Ông
Bình đại diện nhà trai, chuẩn bị đáp từ. Bỗng mẹ chú D. xuất hiện bất ngờ, chiếc
gậy trong tay bà kéo phăng tấm biển chữ “Tân
hôn”, đêm qua ông Bình cắt vội. Thế là tan, ông Bình ôm bà mẹ, chú D. không
thấy đâu. Thầy cô giáo hoảng hốt khi phát hiện chú D. định treo cổ trong phòng
học… Nhưng bây giờ, cô chú đã vượt qua bao nhiêu phong ba bão táp, con cháu đề
huề.
Vòng bánh xe quay, đưa ông Bình đi theo hoài niệm. Đây rồi cống Cửu Duật,
khi nước băng đường cái trong mùa mưa lụt là những ngày nghỉ học. Hương sen
thơm ngát, chạy dài về phía xứ Miên La, Đồng Thộn thuộc làng Bất Nhị, ra sông
Thu Bồn.
“Sông Thu Bồn xuôi về Cửa Đại/ lạch Bình
Long chảy mãi ra Hàn…”. Từ đây về quê ông, con đường quốc lộ cong cong hình chữ S.
Ngõ Nghè Mai, Chánh Chước vào làng Hạ Nông…
Nhà Nội ông Bình – Thầy Kiều - ở Nga Tiền, thôn Hạ Nông Dưới (Hạ Nông Trung), Kỳ Ngọc (Điện Phước), Điện Bàn, Quảng Nam. Ngôi
nhà mái ngói cổ kính, bên cạnh chùa Hạ Nông (Hoằng Pháp).
Nhìn về hướng nam,
những hàng tre làng Bất Nhị như bờ viền xanh ngát cánh đồng lúa Nga Tiền.
Nội ông Bình là cụ đồ
nho học kiêm thầy địa lý. Những môn sinh của nội thất cơ, lỡ vận vào thời tây
học như bác ông Bình, thí phát quy y trở thành thầy tu, trụ trì chùa Hạ
Nông.
Thời kháng chiến chống
Pháp, chùa Hạ Nông bị hủy hoại, tan nát. Chỉ còn giữ được đại hồng chung bằng
đồng to lớn, hoa văn rất đẹp. Hai con rồng cuộn mình như đuổi bắt, tạo thành
đai. Chuông được các nghệ nhân Làng đúc Phước Kiều (thôn Thanh Chiêm, xã Điện
Phương, Điện Bàn, Quảng Nam) đúc từ thời Minh Mạng (1820-1841)
Làng nghề đúc đồng Phước Kiều,
có lịch sử hình thành từ khi Dinh trấn Quảng Nam, dưới thời Chúa Nguyễn
Hoàng, đầu thế kỷ 17, tồn tại và phát triển hơn 400 năm qua.
Dưới thời chúa
Nguyễn và triều Nguyễn, những nghệ nhân của làng nghề được triều đình gọi ra
Phú Xuân tham gia đúc đỉnh, vạc, súng và cả ấn tín.
Nghe nói tiếng chuông
vang rất xa, đến Hàn (Đà Nẵng) còn vọng thanh âm. Bác ông Bình hiệu Thích
Như Viên, pháp tự Giải Phương, tục danh Nguyễn Văn Đảnh. Lâm tế chánh tông, tứ
thập nhất thế, thuộc Tổ đình Chúc Thánh, Hội An.
Hậu bán thế kỷ 15, làng
quê ông Bình đã có tên. Chùa Hạ Nông (Hoằng
Pháp) được hình thành gần 300 năm, nhưng nay chỉ còn là phế tích. Cách chùa
khoảng 100m, chênh chếch huớng tây-nam có gò Phật và cây thiên tuế cổ thụ, đây
là nơi lưu giữ các tượng Phật và những gì còn sót lại của chùa. Xa xa về hướng
nghĩa địa Gò Bướm, mộ ông Nghè Trần Quý Cáp (1870-1908) với tháp nhọn lẻ loi,
nằm chung với dân làng đã quá vãng.
Sau hiệp định Genève nội mất, chùa Hạ Nông được
trùng tu (1961), do cha và bà con trong làng cúng dường tam bảo. Ngày khánh
thành (Rằm tháng Tư - 1962), ông cùng
anh Ngộ, Dần theo đoàn Phật tử chạy tung tăng. Mẹ nấu cơm chay, thiện nam tín nữ
thọ trai, ai cũng khen. Nồi chay có khoai lang, mít chín cả xơ lẫn múi, đậu
xanh, đậu phụng tươi giã nát, rau sống thơm nồng…
Các thầy về dự lễ khánh
thành có Hòa Thượng Thích Thiện Quả, trụ trì Tổ
đình Chúc Thánh, Hoà thượng Thích Trí Quang, Hoà Thượng Thích Như Huệ (Hòa Thượng thế danh là Phạm Kim Huệ, sinh năm Giáp
Tuất, ngày 02-4-1934 tại làng Cẩm Phô, Điện Bàn, Quảng Nam. Đã thuận thế vô thường thâu
thần an nhiên thị tịch vào lúc 9 giờ 25 tối ngày 23/06/2016 - nhằm ngày
19/5/Bính Thân tại Tổ Đình Pháp Hoa Nam Úc. Thọ thế: 83 tuổi, 60 Hạ lạp).
Năm
1965, quê hương chìm trong khói lửa. Chùa Hạ Nông vắng dần thiện nam tín nữ. Đạn
bom cày xới tan tành ngôi chùa cùng ba cây đa cổ thụ. Chỉ còn trơ lại gác
chuông. Bác Xứng vẫn chiều chiều dộng chuông thinh không, vang vọng cõi trần
ai.
…………..
Xã Điện Phước phía Bắc giáp xã Điện Hòa,
phía tây giáp Điện Thọ, phía Đông giáp Điện An, phía Nam giáp sông Thu Bồn. Rạch Bình Long nối dòng sông Thu Bồn băng qua làng, xuôi về
sông Hàn, Đà Nẵng. Điện Phước là xã thuần nông,
đồng bằng màu mỡ, nhờ phù sa của Sông Thu Bồn. Sông Thu Bồn bắt nguồn từ khối
núi Ngọc Linh thuộc huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum và đổ ra
biển tại cửa Đại, thành phố Hội An. Một nhánh chảy vào sông Vĩnh Điện,
đổ vào sông Hàn, Đà Nẵng. Trước khi đổ ra biển tại cửa Đại, một phần
nước của sông chảy vào sông Trường Giang, đổ ra vịnh An Hòa Tam Quang, huyện Núi
Thành. Sông Thu Bồn cùng với sông Vu Gia, hợp lưu tại Giao Thuỷ - Đại Lộc,
tạo thành hệ thống sông lớn có vai trò rất quan trọng đối với đời sống và tâm hồn
người dân xứ Quảng.
Ngày xưa…
“…..có
24 tên làng thuộc huyện Điện Bàn hiện tại: làng Đắc Ký, Hoa Thử (Phong Thử), Kỳ
Lam, Giáng La thuộc xã Điện Thọ hiện nay; làng Nông Sơn, Bất Nhị, Hà Khúc (Hà
Nông) thuộc xã Điện Phước, làng Đông Bàn thuộc xã Điện Trung, làng Đa Thử (Đa
Hòa) Cẩm Đăng (Cẩm Văn), Giáo Ái thuộc xã Điện Hồng, làng Lỗi Sơn (Cẩm Sơn), Diễm
Sơn thuộc xã Điện Tiến, làng Hoa Hồ (Đông Hồ), Bích Trâm thuộc xã Điện Hòa,
làng Lai Nghi, Phong Hồ, Kim Sa (Cẩm Sa); làng Thị Lại (Thi Lai), Kim Lữ (Cẩm Lậu)
thuộc xã Điện Phong; làng Nhân Triêm (Phú Triêm) thuộc xã Điện Phương, làng Uất
Lũy, Cúc Lũy (Khúc Lũy) thuộc thị trấn Vĩnh Điện và xã Điện Minh, làng Kim Quất
(Thanh Quýt) thuộc xã Điện Thắng.
……
Lê Viết Bang, theo phò vua vào Nam chinh chiến, sau 1471 được
vua Lê sai phái ở lại vùng đất Chiêm Động, có công khai khẩn đất hoang, qui dân
lập ấp, lập nên làng Bằng An, nay thuộc xã Điện An.
…….
Có rất nhiều dòng Lê Tộc từ Thanh Hóa vào định cư tại đất Điện
Bàn như Lê Tấn Viễn định cư tại Điện Dương, Lê Cao Xảo tại Điện Phước, Lê Viết
Bảo tại Điện Nam, Lê Đường, Lê Tấn tại Điện Hồng, Lê Văn Đạo tại Đông Bàn, Lê Đắc
Sùng tại Giáo Ái, Túy La (Điện Hồng), Lê Đắc Vinh tại Điện Hồng...
……….
Trong tập san
nghiên cứu lịch sử số 5 – 1993 của Viện Sử học Việt Nam có công bố
một tài liệu gọi là “Bắc địa tấu từ” (bài tấu tâu về đất Bắc). Bài từ được viết
ngày 12 – 6-1492 (năm Nhâm Tý Hồng Đức thứ 23) này là của 24 dòng họ từ các tỉnh
phía Bắc, Cao Bằng, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tỉnh, Hải Dương vào khai phá vùng Bắc
sông Thu Bồn. Trong số đó có các dòng họ Phan, Hà, Trần, Thân, Nguyễn, Tào,
Ngô, Đỗ, Đoàn, Đinh, Trịnh, Mai, Huỳnh, Từ, Mạc, Lê... Bài từ có nói đến các
tên làng Nông Sơn, Hạ Nông, Châu Lâu, Đắc Ký...
………..
“Theo bước
chân của vua Lê Thánh Tông đi mở cõi, các bậc tiền nhân đặt chân vào Điện Bàn,
xứ Quảng, rồi khẩn hoang, lập làng lập xã. Hạ Nông xã, Câu Nhí xã, Châu Minh
xã, Mỹ Á xã… những cái tên xưa cũ đã từng lưu dấu trong “Bắc địa tấu từ”. Và
trong “Ô Châu cận lục” của Dương Văn An biên soạn năm 1553, các làng của Hạ
Nông xưa, Điện Phước nay, đã được xác lập như Nông Sơn, Minh Châu, Bất Nhị…”
Những địa danh quê
ông đã đi vào thi ca và lịch sử: Bất Nhị, Bình Long, Hạ Nông, Nông Sơn, nghĩa là không thể có hai:“Bồng em mà bỏ vô nôi/ Để mẹ đi chợ mua vôi
ăn trầu/ Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu/ Mua cau Bất Nhị, mua trầu Hội An”, “Sông
Thu Bồn xuôi về Cửa Đại/ Lạch Bình Long chảy mãi ra Hàn…”,
Theo đường Quốc lộ
Bắc-Nam, đến gần cầu Vĩnh Điện rẽ theo
tỉnh lộ ĐT 605 - nay mang tên nhà chí sĩ Trần Quý Cáp hoặc cách trường PTTH
Nguyễn Duy Hiệu khoảng hơn 300m gặp con đường lớn, tráng nhựa phẳng lì mới mở:
Nguyễn Thành Ý…
“Chỉ có hơn 11 cây
số vuông, nhưng Điện Phước quần tụ đến 12 ngôi làng cổ, 50 tộc họ. Xã được
thành lập vào tháng 11.1948, trên cơ sở hợp nhất 4 xã Quý Cáp, Hiệp Lực, Nông
Chánh, Liên Châu. Xã Quý Cáp hẳn là lấy tên của người chí sĩ sinh ra ở làng Bất
Nhị. Cụ Trần Quý Cáp (1870 – 1908) cùng Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, hợp
thành “bộ ba Quảng Nam” nổi tiếng, khởi xướng phong trào Duy tân
với triết lý “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh” còn giá trị đến vô bờ. Bên cạnh cụ Trần có cử nhân Mai Dị (1880-1928),
đỗ đạt nhưng không ra làm quan và lui về quê, cùng các nhà Duy tân mở trường
dạy học. Ông từng tham gia sáng lập và dạy học tại trường Diên Phong, bị giặc
Pháp nghi án và bắt bỏ tù trong phong trào Kháng thuế năm 1908. Ở Điện Phước
còn có tên tuổi vang danh là nhà ngoại giao Nguyễn Thành Ý. Cụ Thành Ý quê từ
Túy La qua cư trú tại Bất Nhị, là một trong “Ngũ tử đăng khoa” (5 anh em trong một nhà có 3 người đỗ tú
tài, 2 cử nhân). Cụ Nguyễn Thành Ý từng được vua Tự Đức cử làm Tổng lãnh sự tại
Sài Gòn - Gia Định”.
Đi học về, ông cùng anh Ngộ, Dần cởi áo
quần nhảy tỏm xuống “đàng nước” (mương
thuỷ lợi), nước trong veo. Chú Bề “mân-te”(đưa nước vào ruộng), ôm gọn áo quần đi thẳng. Anh Ngộ, Dần ngó theo
la í ới.
Xóm Hạ-Nông-Dưới khoảng mươi nóc nhà, có đến
năm bà góa. Những người chồng đã hy sinh trong thời kỳ chống Pháp. Tây càn, ông
Nhì ôm súng leo lên cây đa, ông ra đi khi bà Nhì chưa đến ba mươi. Rồi những
năm sáu ba, sáu bốn, thế hệ tiếp nối như
anh Đông, Dần, Cật, Bảy lần lượt vào du kích và hy sinh…
Khi
ông Bình được sinh ra, ông bà nội đã mất. Bác ông theo nghề ông nội. Bác giỏi
chữ nho, bác dạy tam tự kinh cho lũ trẻ trong nhà:
“Nhân chi sơ, Tính bản thiện,
Tính
tương cận, Tập tương viễn.
Cẩu bất giáo, Tính nãi thiên,
Giáo chi đạo, Quí dĩ chuyên.”
Quê nội ông yên ả thanh bình nhất, có lẽ
sau hiệp định Genève 1954 đến cuối năm 1960! Đúng là thái bình thật, không trộm
cắp, những đêm hè cửa thường bỏ ngỏ. Tiếng hò khoan trong mùa cấy tháng tám,
tháng ba thoang thoảng theo làn gió bay xa. Ngày xưa, cái thiếu đói thời kỳ giáp hạt, là nỗi ám ảnh
trong lòng người dân quê ông thường trực.
Ngày
xưa làm ruộng chỉ có hai mùa: tháng ba, tháng tám. Mẹ ông quảy gánh sang tận
Đông Bàn (Gò Nổi), La Thọ mua sắn,
mua khoai, xắt lát phơi khô, độn cơm.
Những buổi chiều ông theo chú Mười (Thi)
đi câu cá thát lát ở “giếng” Thủ Bộ.
Gọi là “giếng” nhưng vốn là hố bom,
sâu khoảng vài mét, đường kính hơn chục sải tay. Ông lội dọc theo triền nước,
xúc những con “mày mày” (ấu trùng chuồn chuồn) cho chú câu…
Có những hôm chú Mười câu được mười mấy
con cá to, óng ánh như dát bạc. Mẹ ông làm chả cá thát lát nấu canh với rau tần
ô ngọt lịm.
Mùa đông mưa phùn gió bấc, bàu Súng – rất
nhiều cây bông súng, hoa trắng viền tím ngát - trắng xoá, nước mấp mé bờ đập
thuỷ lợi. Ba ông đặt lờ, cá rô, cá diếc, cá tràu, thác lác, cá trê béo ngậy. Nướng trên lò than, chấm nước mắm gừng hết chỗ chê! Nồi cơm đất nung
thơm lừng với chén mắm cá nục, cá cơm, dằm vào ớt tỏi ăn quên thôi, quên mất phần
người lớn!
“Ông
tha mà bà không tha/ Làm cho cái lụt hăm ba tháng mười”. Nhưng lụt mang phù
sa cho ruộng đồng phì nhiêu. Những gánh phân chuồng, phân xanh đã làm đượm tình
quê qua hương thơm ngạt ngào của hạt cơm lúa mới.
Lụt lớn, lụt nhỏ nước chảy tràn đồng là
những ngày hội hè của đám trẻ con, tất bật chạy đi đơm cá. Những bát cá mại, cá
cấn, đủ loại cá con, kho với lá gừng, lá nghệ vàng ươm ngon hết biết nhưng cơm
không đủ ăn! Kể cũng lạ, đất khô nứt nẻ, nhưng khi mưa xuống lại có cá, không
biết từ đâu?
Gần Tết, từ đầu tháng Chạp, bác ông đã cuốc
đất lên luống, gieo cải. Nhà nhà lo Tết, mẹ ông chuẩn bị sẵn không thiếu thứ
gì. Đưa ông Táo về trời, mẹ nhờ chú ba Diện quảy gánh nếp đi bung. Nấu nước đường
làm bánh hộc, bánh khô, bánh in, mứt dừa, mứt gừng, mứt bí đao… Chiều ba mươi
quanh bếp lửa hồng, nồi bánh tét sôi sùng sục, tiếng heo bị làm thịt kêu eng
éc…
Đêm giao thừa pháo nổ vang khắp làng trên
xóm dưới, rồi chìm vào hư không. Tiếng chuông chùa Hạ Nông ngân vang… Sự thiêng
liêng ngự trị trong lòng mỗi con người. Cầu mong mưa thuận gió hoà, quốc thái
dân an.
Người dân quê ông bao đời vẫn sống chân chất, thanh lương. Miền trung đất hẹp, gánh nặng hai đầu đất nước. Chỉ học theo gương người trước, cố dành khoa bảng, phụng sự cho đời.
Ngũ Phụng Tề Phi có
nghĩa là năm con phượng cùng bay, danh hiệu tặng cho
năm vị đại khoa cùng đỗ trong một khoa thi năm 1898, và cùng thuộc
tỉnh Quảng Nam, đó là một điều hiếm có trong một tỉnh. Năm vị ấy là:
- Tiến sĩ Phạm Liệu (Trường Giang, huyện Điện Bàn)
- Tiến sĩ Phan Quang (Phúc Sơn, huyện Quế Sơn)
- Tiến sĩ Phạm Tuấn (Xuân Đài, huyện Điện Bàn)
- Phó bảng Ngô Lý còn gọi là Ngô Chuân (Cẩm Sa, huyện Điện
Bàn)
- Phó bảng Dương Hiển Tiến (Cẩm Lậu, huyện Điện Bàn)
Sau ngày ký Hiệp định Genève, cha
ông đưa gia đình về quê. Cha làm căn nhà ngói to nhất làng, toàn là danh mộc,
đúc bê-tông, nằm giữa chùa Hạ Nông và nhà bác Xứng.
Ông Bình được khai tâm “trường” thầy Tư Khải. Gọi là trường,
nhưng chỉ có hai dãy bàn bằng gỗ mít. Học trò lèo tèo năm bảy đứa, cả gái lẫn
trai…
Mẹ ông mua mấy cuốn vở, bình mực, bút lá
tre. Mực viên hoà với nước, mực xanh, mực tím. Thầy dạy vỡ lòng, “a,b,c…a,ă,â…
– nhân chi sơ tính bổn thiện…” Thầy dạy Tam tự kinh lẫn tiếng Pháp.
Những ngày thơ ấu, ngôi trường tiểu học Kỳ
Ngọc (Điện Phước) gần nhà ông Đốc
Thuyên (Trần Thuyên – con trai duy nhất
của cụ Trần Quý Cáp) do thầy Trợ Lập làm hiệu trưởng. Trường chỉ có ba lớp:
Cô Thu Cúc dạy lớp ba, thầy Hào dạy lớp nhì, thầy Phấn lớp nhất (1960-1962).
Những đứa học trò nhà quê chân đất đến
trường cùng sách vở cong queo, sân trường không bóng mát. Cả đám nép vội vào lề
đường, khoanh tay cúi đầu chào khi nghe tiếng xe mobilette của thầy Phấn sau
lưng. Nhà thầy ở thị trấn Vĩnh Điện, gần ngã ba đường xuống Hội An. Thầy cận
thị nặng, những đứa hay nghịch ngợm giành nhau ngồi cuối lớp, nghĩ rằng thầy
không trông thấy mình.
Hơn năm mươi năm qua, những người bạn năm xưa, có bạn vẫn còn sống
ở quê nhà: Trần Hoài Thanh - lương y cứu giúp nhiều người, Mai Đức Phụ, Đinh
Thị Tân – cô giáo đã hưu, Đỗ Cả… Đa số tha phương cầu thực và thành danh xứ
người: Hồ Đắc Anh – cựu hiệu trưởng trường cấp 3 Võ Trường Toản, Q.12, Đinh Văn
Mười (P.TGĐ.VCB), Lê Hồng Thái… hay những bạn đã giã từ cuộc sống bởi chiến
tranh huynh đệ tương tàn: Trần Văn Giáp, Nguyễn Văn Diên, Nguyễn Văn Bảy…
Dòng ký ức ùa về trong ông, ông Bình học được nghề gò ở trại cải tạo. Công xá từ những chiếc thùng
tưới, thùng gánh nước, thay đáy thùng… Mỗi chiều về, cũng mua cho mẹ chút trầu
cau, mua cho con chút đường, thay sữa!
THÂN PHẬN
Mẹ tần tảo nuôi con
Đêm mưa và ngày nắng
Cằn cỗi cuộc đời nước mặn đồng chua
Quê ta nghèo mùa được mùa thua
Theo gió bão sớm dưa chiều muối
Tuổi tám mươi Mẹ chưa một lần tiếc nuối
Nuôi con khôn lớn những ngày
Gắng học nên người
Tạo dựng ngày mai
Thời của Mẹ qua rồi thời nô lệ
Đời ta nghèo, nhà ta bao thế hệ
Nước ta nghèo cần chất xám nơi con
Nhưng Mẹ ơi, con chờ đợi mỏi mòn
Xin làm những gì hợp với nghề con
Người ta bảo anh nên làm ruộng rẫy
Và con rất tự hào hăng say cày cấy
Cử nhân như con biết mấy vạn người
Đạp xe thồ, bốc vác chợ trời
Hay tay lấm chân bùn như con của Mẹ
Nên đàn em con
chẳng học hành ra lẽ
Vì tương lai không định hướng nên người
…….
Sau
năm 1975, cha mẹ quy cố hương và dường như đã già hơn so với tuổi. Cái nôi thời
thơ ấu, gần như hoang phế bởi chiến tranh, gạch vỡ vây quanh làm tường, mái
tole cũ kỹ, tạm bợ. Cha ốm yếu, mẹ và vợ ông không biết làm ruộng, hai con còn
nhỏ…
Ông
Bình đi trả công thay mẹ. Mẹ - con gái thành phố, theo cha về làm ruộng, tất bật với heo gà lam
lũ. Đàn ông như ông quá tệ, xóc đầu này, tuột đầu kia, không gánh nổi hai bó
lúa, lưng cong như con tôm quỵ xuống bên bờ ruộng, thôi đành vác từng bó lên
vai… Đứng trên mảnh ruộng này, là rộc Ngang, đám Lớn, bàu Lát… cha đã dành dụm
không dám ăn tiêu để có nó. Bây giờ của HTX, ông Bình đi làm thuê.
Ngày xưa đi học ông Bình băng vườn Chùa, băng rộc khi mùa tháng tám đã
thu hoạch, trơ đất bệ. Miếu Bà linh thiêng nép mình dưới cây xoài cao vòi vọi,
dọc theo bờ mương đến trường học Mới (Hạ Nông Trung), nơi đây có trạm bơm nước,
chú B. ba-te vác cuốc theo dòng, khơi chảy vào từng đám ruộng. Những con dế
than, dế cơm ngơ ngác, xoè đôi cánh có hai viền trắng tròn, bay tứ tung. Đàn
sáo sậu, chèo bẻo tha hồ chao liệng, săn mồi.
Ông
Bình ôm cặp đi qua cầu tre “ông Trọng” đong đưa, bắc ngang lạch Bình Long đến
trường. Trưa tan học, lũ trẻ chân không dép chạy như ma đuổi, những chuyện kể của
người lớn ám ảnh: ma dơi, ma dú… Dọc bờ lạch, tre gai chằng chịt, cọ xát vọng
tiếng ỉ ôi, như ma Hời kêu than vong quốc. Cũng có khi ông Bình rẽ con đường nhỏ,
bên nhà ông Đốc Thuyên, qua rộc ngang, nghĩa trang Gò Bướm, về nhà.
Những địa danh La Hòa - có nhà thờ Công giáo La Nan, Bất Nhị, Hạ Nông, Nông Sơn, Miên La, Đồng Vòng, Thai La, Nam Hoà… Bãi biền dâu xanh ngát:
“Một nong tằm bằng năm nong kén
Một nong kén bằng chín nén tơ
Em thương anh tháng đợi năm chờ
Lòng nào dứt mối lìa tơ cho đành” (ca dao)
……….
Cha cho mấy cây cột “mùn”, ông Bình cùng anh Ngộ kéo xe “bò”
ra Hòa Châu. Ông bà ngoại
cho
tre, anh em đẩy xe về Hạ Nông trong đêm.
Chú Liếng (đã mất) giúp làm nhà, cha dạy đánh tranh rạ, trộn đất
sét với rơm làm vách.
Nhìn con còi cọc, ông Bình ăn trộm con gà của cha. Đêm tối bắt nhầm con
gà mái đẻ, cha chửi
quá
trời! Không có gì mời “quan viên”, lại nghe nói xương chó hầm đậu xanh
trị bệnh ghẻ lở trẻ con, ông lừa con chó
chạy xuống mương thủy lợi, trấn nước, đãi khách!
Đôi mắt con chó bị trấn nước cứ ám ảnh ông
Bình, đã đi vào truyện ký của ông: “Giọt Nắng Trong Sương”
HTX cần người đo đạc. Ông Bình cùng anh Khóa (đã mất), Nguyễn Đức
Thu, Ngô Minh Hiền lập nên “bản đồ giải thửa” đầu tiên của HTX Điện Phước.
Ngày đi ngắm, cầm “mia”, đêm về dạy bổ túc văn hóa. Ông Bình dạy các môn
tự nhiên,
Trần
Hoài Thanh dạy văn, Nguyễn Đức Thu dạy “toàn bộ” cấp 1, Thầy Điểu quản
lý, Tào Bạn (đã mất
2019) – Bí thư xã đoàn – hiệu trưởng. Mỗi mùa được chia 60 kí lúa “điều hòa”.
Dượng Tường (đã mất 08.10.2017) cho chiếc xe Lambretta, sơn sửa lại thật đẹp. Có
người gạ đổi xe honda 67, ông Bình đã tu bổ ngon lành, nhưng xăng bị khan hiếm.
Để bán có giá, ông tháo tung theo sách dạy:“mở
trước, lắp sau”, chùi rửa cẩn thận, đến piston, xy-lanh cạo trắng tinh, ông
còn dùng giấy nhám đánh bóng loáng, đến khi ráp vào không biết cái nào trước,
cái nào sau. Nửa đêm, chạy vào nhờ anh Lê Cao Diện (Thư ký UB xã Điện Phước – GĐ/BHXH Điện Bàn sau này), lắp ráp
giúp.
Gần sáng đạp khởi động ì ạch, máy nổ rầm
trời, tệ hơn lúc chưa sửa, do lòng xy-lanh không còn kín hơi. Nhờ vậy ông Bình
biết sửa xe máy, bán cho anh H. – trại gỗ
Hiệp Thành. Ông mua lại xe Suzuki, không xăng, đắp chiếu. Trần Hoài Thanh
mượn đi Đà Nẵng, lúc về nổ banh lốp, không có lốp để thay, ông đổi ngang chiếc
xe đạp duya-ra của Nguyễn Xuân Thống (bạn
học Nguyễn Duy Hiệu – Nay ở Bình Mỹ, Củ Chi, đã mất). Bị trộm lấy mất.
Điện Phước, quê hương ông ngày ấy tình
làng nghĩa xóm tràn đầy, những ngày thơ ấu thanh bình. Ông Bình không ngờ thế hệ của các ông đã được những
bàn tay ma quái, lông lá chuẩn bị đưa vào lò thiêu của cuộc chiến huynh đệ
tương tàn. Mộ phần dành cho tuổi đôi mươi đầy hoa mộng, đã được lập trình, từ
những năm đầu thập niên 60.
……….
Quê hương vậy mà đâu có ngọt ngào gì. Cha
mẹ hom hem, cằn cỗi với tuổi đời mới hơn năm mươi. Cha ông Bình bệnh phổi nặng,
dùng thuốc streptomycin thường nhật. Cha
hướng dẫn mẹ, tập tành tiêm trên cây chuối trước khi thực sự làm y tá của cha.
Streptomycin không được hấp thu qua đường ruột, nên phải dùng đường tiêm bắp.
Mẹ ông Bình -
con gái thành thị, không rành công việc nông tang, cũng lăn xả sớm trưa, cùng
bà con ra đồng, đổi công lấy điểm. Hình ảnh mẹ ông, chưa bao nhiêu tuổi đã
khòm, quần ống cao ống thấp, nhịn ăn chỉ để mua thuốc chữa bệnh cho cha. Ông
Bình đi kinh tế mới sao đành.
Ngày trở về của
ông thân tàn ma dại bởi bệnh sốt rét. Cha
nhìn ông ái ngại, mẹ sụt sùi. Các con ông khóc ré không chịu cho ẳm bồng,
vợ ông tủi thân lẩn ra vườn chuối sau nhà ngồi khóc thút thít.
Ông Bình trả công
gặt thay mẹ. Đòn xóc hai đầu nhọn hoắt, xóc một đầu vào bó lúa, loay hoay vác
lên không nổi, bùn dưới chân trơn tuột, ông ngã lăn quay.
Học được nghề gò.
Ông gò thùng gánh nước, thùng tưới, thùng đựng phân xanh ủ với nước “giải”, thùng đựng phân bắc cho hợp tác
xã. Không phải bò dưới ruộng khi sốt rét lên cơn.
Mỗi ngày ông nhận
được hơn mười đồng công xá, kể từ ngày ông về với quê hương, những lá trầu trái
cau tươi mua về cho mẹ, gói thuốc rê cho cha,. Mẹ ông chết bất ngờ vì cơn gió độc!
(đột quỵ).
Năm ba mươi tuổi, một vợ bốn con. Để rồi:
…..
Vùng đất mới một thời
đạn lửa
Mảnh bom xen ngô sắn mưu sinh
Em cuốc tôi cày bàn tay rướm máu
Dáng em gầy nắng quái lung linh..
Em quyền quý, tôi một đời rong ruổi
Lá vàng bay ngọc nát xót xa lòng
Gót sen hồng em tần tảo long đong
Tôi vắt mồ hôi vun đầy cơn bỉ cực
Tôi đưa em vào rừng sâu
Tôi đưa em ra biển lớn...
Bến bờ xa mong tìm lại đường bay
Mộng hải hồ xưa, tìm ở chốn này
Đêm nguyệt tận mây ru hồn viễn xứ
Đêm trùng dương sóng bạc đầu cô lữ
Mong trả về em
bóng dáng của người xưa...
………
(Trả Về Em – PNCU)
Mấy chục năm tha hương. Mỗi năm hai lần
giỗ, anh em chia nhau. Mười năm giỗ mẹ, cha còn.
Nhưng đất khách quê người, quạnh hiu, vắng
thân yêu cật ruột. Năm nay em ông Bình rủ anh về quê. Giỗ cha tại nhà từ đường.
Nền đất cũ, một thời ấu thơ, tung tăng chạy nhảy. Nhìn về hướng làng Bất Nhị,
bàu súng hoa nở viền tím rung rinh trong nắng sớm. Mây trắng giăng ngang đỉnh
núi, êm ái trải dài như dáng mẹ nằm, xõa tóc bao năm.
Vết sẹo trên trán em, cánh tay cán vá của
anh, nghịch ngợm trèo lên cây đa tìm bắt chim non mà ra. Cây mít cỗi, hàng cau
quá già lặng im, nhưng hàm chứa bao nỗi lòng ly tán.
Tất cả anh chị em, một đời lam lũ. Tất
bật, dậy từ chưa sáng. Tiếng gà bị túm cổ bất thần, ré lên hoảng hốt. Bếp lửa
bừng lên, những chiếc bóng chập chờn tíu tít. Giỗ bác, giỗ chú, giỗ cậu. Mấy
khi có dịp được dâng nén hương lòng. Ai cũng hân hoan, ông Bình ngồi nhìn, nước
mắt rưng rưng.
Chị Năm, nay gù lưng hơn năm trước, quét
dọn trong ngoài. Các bàn thờ đã sạch sẽ tinh tươm. Những lọ hoa phượng vàng,
anh Ngộ đã chuẩn bị từ hôm trước.
Ông Bình như khách, không ai cho đụng tay
bất cứ việc gì, ngoại trừ thắp hương đảnh lễ. Lễ cầu siêu từ sớm, tiếng chuông
mõ vọng kinh âm vang.
Nhà thờ Tộc Nguyễn Văn Đệ Tứ Phái
Nhà ông còn ba cô, một chú. Ai cũng trên
chín mươi, hom hem. Ở cùng làng, vậy mà gần chục năm nay anh chị em không gặp
nhau. Ông Bình định thuê người võng, mời cô chú đến từ đường nhưng không ai
bằng lòng. Đường làng nhỏ hẹp quanh co, ngại bước chân người. Vợ chồng Giai vẫn
lam lũ ở quê. Mùa gặt, hương rạ thơm lan tỏa, gợi nhớ ngày xưa cũ, đường làng
vẫn rợp bóng tre mát rượi. Tiếng xe máy đẩy đưa theo làn gió, ông định nép mình
tránh lối. Ai như em dâu hiện ra sau khúc quanh, mặt mũi choàng kín mít, em lọt
thỏm giữa hai bao lúa. Chân buông thỏng, rà trên mặt đường giảm tốc, thay
phanh.
-
A! anh về hồi mô?
Ông kéo phụ xe ngừng. Mồ hôi túa ra ướt
đẩm, khuôn mặt em khắc khổ nổi bật đôi mắt to, ánh lên tia mừng rỡ.
-
Anh mới về thất thời!
Ông giữ xe cho em bước xuống, tay ga vẫn
cầm chừng. Hai bao lúa to đùng, bây giờ choán mất chỗ ngồi. Hai anh em đùn đẩy
ì ạch lên dốc, vào sân.
May có ngọn gió nồm, khô nhanh những giọt
mồ hôi.
Ông không tin được. Từ sớm tinh mơ, gà chưa
gáy sáng, em tất bật với nồi cám heo to tướng. Mồ hôi nhỏ giọt theo từng túm
rơm khô vào bếp, vàng rực ánh lửa. Bầy heo thi nhau chồm mỏ, kêu inh ỏi. Vén
gọn bếp vừa tàn, em xăng xái chất lúa khô lên xe, một bao, hai bao. Ông phụ em
ràng buộc, chở đi chà, buôn gạo.
-
Em quen rồi, anh nghỉ đi, anh không
biết làm mô!
Nhìn em, ông ứa nước mắt.
Tiếng chổi quét ngoài sân, vọng vào lòng ông nỗi buồn xa vắng. Tối qua, mấy anh em hàn huyên tâm sự đến gần nửa đêm, em treo mùng, dọn giường, bật quạt, tắt đèn. Ông nằm mơ màng nhớ về những ngày thơ dại. Ông thiếp đi trong bồi hồi, tiếng côn trùng rả rích đâu đây.
MỤC LỤC:
1. Bèo
Dạt Mây Trôi………………………………..2
2. Thằng
Cu Lớn ………………………………….15
3. Mong Manh…………………………………….26
4. Nơi Nào Là Quê Hương ……………………….31
5. Khắc Khoải……………………………………. 38
6. Ba Mươi Năm ………………………………….43
7. Ông Nội “Cà Quỷnh” ………………………….49
8. Ly Hương……………………………………….54
9. Dấu Ấn Trong Đời …………………………… 62
10.Động
Dục ………….………………………67
11.
Đôi Mắt …………………………………….71
12.
Mẹ Tôi ……………………………………...74
13.
Thiên Di…………………………………….79
14.
Những Chuyễn Phà Đêm …………………..84
15.
Khu Vườn Không Có Ánh Trăng ………….90
16.
Mây Trắng …………………………………99
17.
Bá Đạo …………………………………….111
18.
Quê Nhà……………………………………117
19.
Mảnh Trăng Khuya………………………...124
20.
Gió Cuốn Bay Đi………………………….. 129
21.
Bóng Chiều…………………………………136
22.
Sống Cái Nhà Già Cái Mồ …………………143
23.
Cội Tuyết Tùng Già……………………….. 149
24.
Giọt Nắng Trong Sương …………………153
25.
Ngoại Tôi…………………………………158
26.
Cỏ Bông Lau……………………………...162
27.
Con Ngựa Mù ……………………………167
28.
Sướng “Cù Lần”………………………….174
29.
Đi Tìm Hành Trình Của Cha Tôi………...177
30.
Long Mã Tà………………………………185
31.
Linh Miêu………………………………...192
32.
Rắn Mắt…………………………………..196
33.
Chuyện Xưa Tích Cũ……………………..201
34.
Hoài Niệm………………………………..209
35.
Mục Lục…………………………………. 246
TRĂNG TREO MÁI LÁ
Tôi đi loanh quanh vì không biết đường, vác trên vai bao tải nặng trịch. Bỗng nhiên cô gái từ trong nhà bước ra chận đường: - Anh tìm ai mà...
-
CHƯƠNG II THỜI QUÂN NGŨ Đang học dở dang, trường bãi khóa, tôi về Đà...
-
Hỡi những cánh chim lạc loài viễn xứ Thiên di về đâu có mỏi cánh đường bay Có mơ hoang dáng Kiều trong nét lạ Hay ngậm ngùi rơi lệ giữa cơn ...
-
Nàng đẹp, không dám nói thiên kiều bá mị nhưng trong mắt Anh, nàng là giai nhân tuyệt thế. Anh đánh bạo hỏi nàng: - Em dám yêu anh khôn...