Thuở xa xưa, Mỵ Nương chỉ danh xưng
con gái các vua Hùng thời Hồng Bàng. Thời vận đảo điên, cha mẹ đặt tên cho
nàng: Mỵ Nương, không rõ lòng nàng như Tiên Dung đem lòng yêu Chữ Đồng Tử hay
nàng như Mỵ Nương nghe tiếng sáo véo von của Trương Chi mà thầm thương trộm nhớ
mang bệnh tương tư, có khi nàng là Mỵ Nương Ngọc Hoa tạo ra sóng gió ba đào để
Sơn Tinh – Thủy Tinh tranh giành gây ra bão lũ điêu đứng nhân gian hoặc nàng là
Mỵ Châu vì si tình phụ nghĩa quân vương đã dâng hết cơ đồ cho giặc?
Năm đó, Mỵ Nương mới tuổi mười lăm
nhưng xinh đẹp lạ thường, vóc dáng điệu đà như tranh tố nữ, đàn thiên nga bay
về từ biển Bắc cùng nhau nhảy múa ca ngợi dáng liễu, đàn chim hồng hạc thiên di
về phương Nam hân hoan ca tụng dung nhan thiên kiều bá mị của nàng.
Tiếng đồn hương sắc
khuynh thành của Mỵ Nương cùng đến tai hoàng thái tử Lê Duy Vỹ, con của vua Lê
Hiển Tông và thế tử Trịnh Sâm nhưng Mỵ Nương đã được tấn cung, từ đó Trịnh Sâm
càng đem lòng thù oán Lê Duy Vỹ. Sau khi lên ngôi chúa, Trịnh Sâm lập mưu tống
giam Lê Duy Vỹ vào ngục và giết chết. Chúa Trịnh Sâm lập Lê Duy Cận – em Lê Duy
Vỹ lên làm thái tử. Sau khi Trịnh Sâm mất, quân lính tam phủ làm loạn kiêu
binh, mở ngục rước Lê Duy Khiêm con Lê Duy Vỹ về cung. Chúa Trịnh Khải cùng
quần thần trong triều xin vua Lê Hiển Tông lập Lê Duy Khiêm làm hoàng thái
tôn.
Vua Lê Hiển Tông băng
hà, Lê Duy Khiêm được nối ngôi đổi tên là Duy Kỳ, đặt niên hiệu Chiêu Thống.
Sau khi Lê Duy Vỹ bị hãm hại, Mỵ Nương bị triệu về phủ Chúa. Chúa Trịnh bị quân Tây Sơn tiêu diệt, Mỵ Nương được Trịnh Bồng đưa về quân doanh. Lê Chiêu Thống không đủ uy tín và tài năng nên dựa vào binh lực của Trịnh Bồng để mong khôi phục vương triều. Mỵ Nương đêm ngày cùng Trịnh Bồng mê say trong hoan lạc nhưng đôi mắt u uẩn của nàng khiến Trịnh Bồng tức giận:
- Ta đã cứu nàng thoát nạn binh đao, hà cớ gì đêm ngày nàng thở vắn than dài?
Sau khi Lê Duy Vỹ bị hãm hại, Mỵ Nương bị triệu về phủ Chúa. Chúa Trịnh bị quân Tây Sơn tiêu diệt, Mỵ Nương được Trịnh Bồng đưa về quân doanh. Lê Chiêu Thống không đủ uy tín và tài năng nên dựa vào binh lực của Trịnh Bồng để mong khôi phục vương triều. Mỵ Nương đêm ngày cùng Trịnh Bồng mê say trong hoan lạc nhưng đôi mắt u uẩn của nàng khiến Trịnh Bồng tức giận:
- Ta đã cứu nàng thoát nạn binh đao, hà cớ gì đêm ngày nàng thở vắn than dài?
- Thế nước loạn lạc thù trong giặc ngoài, thiếp e cảnh nồi da
xáo thịt chỉ tạo cơ hội cho giặc đàng trong. Vua Lê đang dựa vào Người, sao
ngài không thỉnh nguyện nhà vua phong vương để danh chính ngôn thuận hầu mong
đời đời họ Trịnh nhà ta rạng danh với non sông và tiên tổ?
Trịnh Bồng nghe bùi
tai dâng sớ xin phong vương nhưng Lê Chiêu Thống vỗ về:
- “Trước kia cơ nghiệp nhà ta giữa chừng đổ nát, chính quyền do
trong tay họ Trịnh, việc tế tự thì về quả nhân. Đấy là một thời kỳ. Nhưng nay
lòng trời oán ghét họa loạn, phó thác quyền bính cho một mình ta. Một nước hai
vua, có lẽ nào cứ giữ làm thể lệ được?” (*)
Nhưng thế chẳng đặng
đừng, vua Lê Chiêu Thống đành phong cho Trịnh Bồng làm Nguyên soái, Tổng quốc
chính, Yến Đô Vương.
Trịnh Bồng ngày
càng dấu ái Mỵ Nương và để nàng kề cận như mưu sĩ. Trịnh Bồng bày tiệc mừng
công và phong cho Mỵ Nương làm Võ tuyên phi. Mỵ Nương quỳ lạy tạ và thỏ thẻ
cùng Yến Đô Vương:
- Thiếp nghe chuyện xưa Hoài Âm Hầu Hàn Tín không nghe lời chia
ba thiên hạ tạo thế chân vạc để ngày sau bị Lã Hậu nhà Hán giết hại và bị tru
di tam tộc. Chỉ còn than được một lời: “Ta hối hận không dùng mưu kế của Khoái
Triệt, cho nên mới bị bọn đàn bà con nít lừa dối. Há chẳng phái là vì trời muốn
thế hay sao?”
Trịnh Bồng y lời cùng
Dương Trọng Khiêm bàn chuyện phế lập, Lê Chiêu Thống vội gởi chiếu thư cho
Nguyễn Hữu Chỉnh – Trấn thủ Nghệ An, đưa quân về cứu giá đánh tan quân Trịnh
Bồng. Trong cơn loạn lạc can qua, Mỵ Nương cùng đoàn tùy tùng chạy theo Trịnh
Bồng lên Cao Bằng nương nhờ vào chốn thiền môn.
Nguyễn Hữu Chỉnh ngày
càng lộng hành, vốn là người phản trắc “sớm đầu tối đánh”. Khi quân Tây Sơn do
Vũ Văn Nhậm đưa quân ra Bắc Hà, vua Lê Chiêu Thống nghe lời Nguyễn Hữu Chỉnh bỏ
Thăng Long chạy về Kinh Bắc, đoàn ngự giá như bầy ong vỡ tổ bị bọn vô lại cướp
mất áo bào, thị nữ hộ vệ tan tác, vua tôi nhà Lê giả làm sư sải ẩn náu mạn Thái
Nguyên, Cao Bằng.
Tiếng chuông chùa
ngân nga trong không gian u tịch của núi rừng Đông Bắc lan dần trên đồi cây
ngọn cỏ, vua Lê bùi ngùi nhớ về thời hoàng kim tiên tổ, vua Lê Thái Tổ đã nằm
gai nếm mật để “Mười năm bình định giặc Minh”. Thác Bản Giốc loang loáng nước
dưới ánh thiều quang như dãi lụa bạc trắng xóa bên dòng sông Quây Sơn, Ni cô Mỵ
Nương dõi mắt về bên kia sông đồi núi nhấp nhô viền mây trắng bềnh bồng như
vành khăn tang đời cô phụ. Xa xa về phía hạ lưu thấp thoáng bóng người cùng
tiếng ngựa hí trong ánh hoàng hôn, vọng lại âm vang uy quyền của đoàn quân Tây
Sơn - Vũ Văn Nhậm đang truy lùng vua Lê và Nguyễn Hữu Chỉnh.
- Nam Mô A Di Đà Phật! Ni cô có thấy đoàn quân nào lai vãng gần đây?
- Nam Mô A Di Đà Phật! Ni cô có thấy đoàn quân nào lai vãng gần đây?
- Mô Phật! Tiếng thác ầm ì khó nghe động tỉnh. Am Bạch Vân ẩn
giữa đại ngàn, thế sự tiêu diêu…
Sau khi bắt giết Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm lại có ý đồ phản lại Tây Sơn. Nguyễn Huệ ra Bắc Hà giết Vũ Văn Nhậm, giao binh quyền cho Ngô Văn Sở. Bầy tôi nhà Lê bảo vệ thái hậu và con trai Lê Chiêu Thống qua cửa ải Thủy Khẩu sang nhà Thanh cầu xin cứu viện.
Cương mục viết:
“Thái hậu đưa nguyên tử (con trai Chiêu Thống) đến yết kiến ở trong
sân, gào khóc xin cứu viện. Bọn Sĩ Nghị tâu với vua Thanh rằng tự hoàng nhà Lê
đương phải bôn ba, đối với đại nghĩa, ta nên cứu viện. Vả lại, An Nam là đất cũ
của Trung Quốc, sau khi khôi phục nhà Lê, ta nhân đó, đặt lính thú để đóng giữ.
Thế là vừa làm cho nhà Lê được tồn tại, vừa chiếm lấy được An Nam, thật là làm
một chuyến mà được hai lợi”.(*)
Ni cô Diệu An – Mỵ
Nương, ngước nhìn trời mây u ám, trăng thượng tuần chênh chếch từ hướng kinh
thành Thăng Long mờ mịt trong màn sương đêm lan tỏa dưới chân đồi. Dòng sông
Quây Sơn lặng lẽ trôi xuôi về trung du mang bao nỗi niềm vọng về cố lý. Mỵ
Nương ngâm lên khe khẻ:
Thương nữ bất tri
vong quốc hận
Cách giang do xướng
Hậu Đình Hoa.
Tà áo lam phất phới
theo làn gió đêm se lạnh, Mỵ Nương gieo mình xuống dòng sông Quây Sơn mịt mù
khói sóng.
Núi rừng Đống Bắc về đêm, trời trở gió.
Núi rừng Đống Bắc về đêm, trời trở gió.
Nguyễn Châu
(*) Tham khảo: Lê Chiêu Thống – Wikipedi