Áp điện cực vào ngực
và hai tay. Máy khuếch đại, ghi lại trên điện tâm đồ.
Những đường cong uốn mình cao vút, cực đại là lúc ta thổn thức nhớ về nhau.
Nhưng hôm nay chỉ gợn sóng lăn tăn, dù…
Thần
giao cách cảm chi phối nhịp tim. Khi giao hoà, hai bước sóng song đôi, cùng hân
hoan, thăng hoa trong nhịp thở. Hay anh đã chết?
Trời
Qui Nhơn mùa đông thật buồn, gió bấc lạnh mang hơi biển, tê tái lòng người. Từ
căn gác trọ đường Hàn Thuyên, nhìn áo em tung bay trong mưa phùn lạnh lẽo. Trường
nữ Trinh Vương không xa, nép mình sau tượng Đức Mẹ, đôi mắt thánh thiện, hiền dịu.
Nhưng về đêm, anh không còn nhận ra em. Cô bé nhí nhảnh trong jupe
soiree trắng, hồn nhiên và nghịch ngợm bên anh. Cà phê Dung, chìm lắng trong điệu
nhạc mơ hồ, vàng tay khói thuốc.
Ngày
em vào trường Sư phạm, cũng là ngày anh bị động viên vào quân đội. Những nụ hôn
vụng về, vòng tay cuống quýt. Hẹn ngày ra trường sẽ thành đôi lứa.
Những
ngày sắp xa nhau, anh đưa em đi đến những nơi nào có thể. Mộ Hàn Mặc Tử chênh
vênh, Ghềnh Ráng mù sương. Đầm Thị Nại mơ màng dưới chân núi Phương Mai lộng
gió. Đảo Hải Minh trải dài chắn sóng cho thành phố cảng. Cù lao Xanh lẽ loi, mờ
mịt ngoài khơi xa…
Em,
con gái dòng dõi trâm anh thế phiệt. Con cháu nhà Tây Sơn một thời lừng lẫy. Dù
sa cơ mấy đời dưới triều Nguyễn, nhưng dần hưng thịnh, khi ba em về nhận chức
thị trưởng thành phố Qui Nhơn.
Ông
nội anh, thuộc dòng khoa bảng. Ông Cử của khoa thi cuối cùng. Ông thầy đồ khiêm
cung của thời nho học thất thế, không tán đồng mối lương duyên của anh và em.
Do mặc cảm và tính khí khái hay bất đắc chí của của nhà nho trong thời mạt vận?
Em
đã trao thân. Mong sự lỡ làng để thành đôi. Nhưng những ngày không có anh, em
đã buông thả với những đêm phòng trà thác loạn. Men rượu cay nồng, bạch phiến
trộn lẫn khói thuốc Kool, đưa em về miền ảo giác.
Em
trở nên hụt hẫng với tất cả. “Make love, not war”. Thân phận lạc loài của con
giun con dế, thời kỳ chiến tranh dữ dội. Em dấn thân theo phong trào Hippie. Em
không còn là mình, cô giáo sinh sư phạm ngoan hiền ngày nào.
Ngày
anh trở lại, em đã có thai. Đứa bé ra đời trong nghiệt ngã. Em đã sa chân,
lương tâm em gào thét, em không thể trao về anh trách nhiệm. Riêng anh, anh
không tin đó là con mình. Anh từ chối trong đau xót.
Sự
ăn năn và thất vọng đã đưa em đi xa hơn, càng ngập ngụa trong vũng lầy nhân thế,
em càng đánh mất nhân phẩm của mình. Ngày ra trường em chọn nhiệm sở tại Phú Bổn,
dù gia thế của em dư sức can thiệp, để em ở lại Qui Nhơn.
Trường
của em heo hút, thượng nguồn sông Ba. Với sắc đẹp như bông hoa rừng, bên cạnh
tính cách dạn dĩ, ngổ ngáo của con gái thị thành, em đã làm say đắm bao con tim
quan chức miền sơn cước.
Những
chiếc xe jeep nhiều sắc phục, đón đưa cô giáo trẻ cuối tuần về tỉnh lỵ Cheo Reo
(Truyền thuyết của người Jarai kể rằng: Từ ngàn xưa nơi
đây là vùng núi non trùng điệp, bốn mùa cây trái tốt tươi, chim kêu vượn hót suốt
ngày, hổ, báo, hươu, nai, voi rừng … không kể xiết. Một ngày kia có hai anh em
tên RCHOM CHEO và RCHOM REO, trong một lần vào rừng săn bắn, mãi đi theo dấu vết
thú rừng đã lạc vào đây…. Cảm nhận được cảnh thanh bình và tràn đầy sức sống của
muôn loài, hai anh em CHEO và REO bỏ chuyến đi săn trở về. Được già làng cho
phép, họ đưa dân làng đến tại nơi này khai khẩn, lập làng, kiến tạo nên cuộc sống
mới… Để ghi nhớ công ơn, dân làng
lấy tên hai anh em đặt cho làng mới: CHEO REO – Nay là Ayun Pa thuộc tỉnh Gia
Lai – Kontum)
Thầy
hiệu trưởng trẻ say đắm cô giáo mới về trường mình. Lời cầu hôn chân thành và
bao dung đón nhận đứa bé không cha. Em sực tỉnh khi thân xác đã rã rời, tan
tành như quả đạn pháo đêm đêm rót vào thị xã.
Rừng
già bạt ngàn, tiếng chim Chơ-rao vang vọng lảnh lót, núi đồi nhấp nhô chìm
trong sương mù. Tiếng cồng chiêng quyện cùng tiếng hát theo gió bay xa, tưởng
chừng như chiến tranh không hề xảy ra trên mảnh đất này.
Trên
bước đường hành quân ngang buôn làng Jarai heo hút. Anh gặp lại em. Cô giáo
ngày nào đã bị đồng hoá trong trang phục váy áo dệt bằng thổ cẩm, đường
viền hoa văn đẹp mắt chạy vòng quanh, những tua chỉ có đính hạt cây Tơr peng.
Em đẹp rực rỡ như hoa lan trắng muốt, nổi bật giữa vòng vây học trò Bahna –
Jarai, hồn nhiên và đen nhẻm bỡi nắng gió cao nguyên.
Ngày
tan hàng trong bi thảm. Anh đưa gia đình em theo đoàn quân rệu rã xuôi tỉnh
lộ 7, vượt qua đèo Tuna, cầu Phú Túc - Củng Sơn, định về lại Qui Nhơn.
Trong
đêm đen hổn loạn, anh đã lạc mất mẹ con em…
Sau bao thăng trầm
trong cuộc sống. Anh theo vận nước nổi trôi, lưu lạc về vùng đất hiền hoà Thủ Dầu
Một, Bình Dương:
“Ai về chợ Thủ bán hủ, bán ve
Bán bộ đồ chè, bán
cối đâm tiêu”…
Ban
đầu Thủ Dầu Một được gọi là Phú Cường. Địa danh Phú Cường xuất hiện vào khoảng
năm 1838 (Minh Mạng)
Thân phận ngụ cư ngay trên đất nước mình.
Đời chỉ dành cho anh những nghề lam lủ, anh miệt mài như con gõ kiến, mang đôi
cánh sặc sỡ, bay đi tìm hang hốc sâu mọt mưu sinh.
Hai mươi năm sau, bằng sự cần cù và kiến
thức kỷ thuật sẳn có, anh đường hoàng bước lên ngôi vị danh gia. Công ty xây
dựng H.H. vang danh trong ngành, không những trong tỉnh Sông Bé (Ngày 6
tháng 11 năm 1996, chia tỉnh Sông Bé để tái lập tỉnh Bình Dương và tỉnh
Bình Phước) mà còn ngược về Qui Nhơn, Bình Định quê anh.
Anh
tìm lại những ngày tháng cũ. Anh đi tìm em trong niềm hy vọng mong manh. Thành
phố Qui Nhơn đã không còn của anh và em, anh như người khách lạ lãng du cuối
bãi đầu ghềnh. Biển không còn màu xanh biêng biếc một thời cưỡi sóng vô tư. Sân
bay cũ đã hoang phế, đìu hiu (hiện nay khu vực đường băng chính được xây dựng
thành đại lộ Nguyễn Tất Thành, con đường đẹp nhất Quy Nhơn. Khu vực khác được
xây dựng thành công viên cây xanh và khu trung tâm thương mại của thành phố Quy
Nhơn).
Anh
tìm về căn nhà cũ. Chỉ biết ba mẹ em đã mất, những người hàng xóm tốt bụng đã
không còn. Anh như Từ Thức
trong “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ.
Từ Thức nhớ nhà, từ biệt Giáng Hương, chỉ chớp mắt đã về đến làng cũ. Phong
cảnh khác hẳn xưa, chỉ còn hai bên khe núi là vẫn nguyên như trước. Chàng đem
họ tên mình hỏi thăm các cụ già trong làng, một cụ trả lời: "Hồi nhỏ, tôi
cũng có nghe nói hình như cụ tổ bốn đời nhà tôi họ tên cũng như thế, nhưng lạc
vào động tiên cách đây đã ngót hai trăm năm rồi".
Tôi đi tìm một nửa của riêng tôi
Nhưng tìm mãi đến bây giờ chưa thấy
Nửa của tôi ơi, em là ai vậy?
Sao để tôi tìm, tìm mãi tên em?
(Tôi đi tìm một nửa của tôi – Thơ Đặng Quốc Vinh)
Duyên hư vô nên không là nợ. Anh nhìn về
trường Sư phạm Quy Nhơn. Trường cách trung tâm
thành phố hơn cây số về hướng Đông Nam.
Vùng
cồn cát nằm dọc theo bờ biển với các loại cây rừng gai góc hoang dã, nay đã đổi tên thành
Trường Đại học Quy Nhơn bề thế, lạ lẫm.
Anh nhớ ngày xưa, từ bến xe Qui Nhơn băng
qua đường Gia Long, theo đại lộ Võ Tánh, đi về phía biển, cuối cùng gặp đường
Nguyễn Huệ. Con đường Nguyễn Huệ chạy dọc theo bờ biển, qua khúc quanh Eo Nín
Thở, đến ngã ba Nguyễn Huệ và Nguyễn Hữu Lộc. Vẫn trên đường Nguyễn Huệ, bên
trái là bãi Thùy Dương, bên phải là Trường Trung Học Vi Nhân, Trường Sư Phạm Qui
Nhơn, kế đến là Trường Trung Học Kỹ Thuật. Nơi đây, qua khỏi
ngả ba, đến khu vực Ghềnh Ráng. Nếu tiếp tục đi trên đường Nguyễn Huệ, nhìn lên
chân đồi là mộ Hàn Mạc Tử.
Chiều xuống dần, nhanh và đen thẩm. Ánh
đèn vàng vọt lung linh theo sóng nuớc, chạy dài về bên kia Hải Minh. Tượng Đức
Trần Hưng Đạo uy nghi nhưng lạnh lùng chỉ tay về trung tâm thành phố.
Anh thả hồn mình, lang thang trong vô
thức. Cổng chùa Tâm Ấn uy nghi, hàng cây im lìm trong nắng sớm. Tiếng chuông
ngân nga như rũ sạch bụi trần ai. Trên Chánh điện, đức Chí tôn từ bi, nhìn anh
độ lượng.
Chùa Tâm Ấn rộng lớn nguy nga. Ảnh hưởng của
chùa trở thành Đại tùng lâm, tiêu biểu cho Ni tự thuộc hệ Thiền tông tại Qui
Nhơn.
Ni sư Tuệ Mẫn không ngạc nhiên, khi thấy
người khách lạ. Gọi Ni cô Huyền Trân pha trà đãi khách. Đôi mắt Ni cô Huyền
Trân như trời thu, mênh mông màu trời dưới đáy hồ trong vắt. Từng giọt mưa rơi
tí tách từ mái hiên chùa, gợi nhớ trong anh, hình ảnh thân thương những ngày
xưa cũ.
Anh tò mò xin Ni sư Tuệ Mẫn kể về thân thế
Huyền Trân. Anh giật mình khi nghe địa danh Diêu Trì, Tuy Phước. Duyên lành cho
anh gặp lại cô bé không cha ngày nào, anh đã một lần phủ nhận.
Ni cô Huyền Trân đưa anh về Tuy Phước,
theo QL.19 nối liền Bình Định – Tây Nguyên. Căn nhà đơn sơ nép dưới vườn cây,
lá cành nhuốm đỏ bụi đường. Em hiện ra, dung nhan tiều tụy. Đôi mắt ngơ ngác, u
uẩn nhìn anh như trong mơ. Nét thanh tân của cô giáo xinh đẹp một thời, không
còn một chút gì hiện hữu nơi em.
Người chồng hiệu trưởng trẻ trung, một
thời si mê em rồi cũng bỏ rơi mẹ con em. Anh ấy đã chạy theo danh vọng, khi
người cha tập kết trở về. Nhà cha mẹ em đã bị trưng dụng. Mẹ con em lang bạt
lên Daklak, Gia Lai rồi về lại nơi này.
Anh ngồi lặng thinh nghe em kể, lòng ngậm
ngùi, tê điếng. Có lẽ nào anh và em, như cánh bèo trôi theo con nước lớn ròng,
theo thời thế đảo điên, hưng phế của cuộc đời.
Ngày gặp lại nhau, em đã mắc bệnh nan y.
Anh đưa em vào Saigon chữa trị. Ni cô Huyền Trân chắp tay, ngước nhìn cõi hư vô
thăm thẳm: “Duyên tự sinh, ắt duyên tự diệt”. Chưa đầy một mùa trăng, kể từ
ngày gặp lại, em đã rời xa nhân thế. Chỉ còn để lại trong anh, dấu ấn rạn vỡ khôn
nguôi.