Chú Dũng ôm tập vở, ngồi lắng nghe tiếng kinh tụng đều đều phát ra từ
chiếc loa gắn trên cổng tam quan chùa Thiên Vân Tự, thỉnh thoảng tiếng chuông
bon làm chú giật mình.
Người đàn bà đẻ rơi và cuộn đứa con mình trong bốn trang báo lớn, lảo
đảo bước đi không hề ngoảnh lại. Đứa bé được vợ thầy giáo Sinh cắt rốn và cho
bú mớm. Gia cảnh nghèo túng đông con, khi chú được bảy tuổi, thầy giáo Sinh đưa
vào chùa ăn nhờ cơm Phật, thọ giới Sa-di.
Xong tiểu học, chú đã thuộc lòng kinh kệ. Thầy trụ trì ngạc nhiên và
thầm khen sự thông minh của chú, ngoài học văn hóa chú được thầy cho học thêm
sinh ngữ và võ thuật. Sự sinh hoạt lẫn lộn đạo, đời khiến chú ngộ ra nhiều
điều.
Người mệnh phụ sang trọng bước ra từ chiếc xe hơi màu bạc, lấy từ trong
giỏ chiếc áo lam khoác vội vào người, xăm xăm bước lên chánh điện. Chú Dũng
chắp tay cúi đầu chào, chú gõ chuông để bà lễ Phật, đồng thời cũng là tín hiệu
báo sư phụ có khách.
Đôi mắt bà lim dim cầu khấn điều gì, chú không nghe rõ. Chỉ nghe “Nam Mô
A Di Đà Phật” liên hồi, bà quỳ xuống ngước mặt nhìn đấng Chí tôn với lòng thành
kính vô biên.
Tiếng chào “A Di Đà Phật” của thầy trụ trì khiến bà quay lại, chú Dũng
nhìn thấy sự thảng thốt trong đôi mắt và
bà vội vàng quay lui, không chào từ giã thầy như những thiện nam, tín nữ vào
chùa.
Chú bước vào hậu liêu, lòng bâng khuâng không hiểu việc gì vừa xãy ra.
Thầy đang quỳ trì chú và niệm Phật, có lẽ mong tiêu trừ khổ nạn, chướng ngại
trên con đường đạo hạnh của thầy.
Mười bốn năm về trước, thầy qui cố hương với mảnh bằng tiến sĩ “Triết
học Đông Phương”. Thầy say mê khám phá kinh tạng Nikàya Pàli và A-hàm thuộc
Phật giáo truyền thống, những gì đức Phật đã dạy suốt 45 năm truyền giáo hay
còn gọi là kinh tạng nguyên thủy, gồm những giáo lý căn bản như Tứ Diệu đế,
Duyên khởi, Vô ngã…
Thầy được Thượng tọa Thích Như Tuệ trụ
trì chùa Thiên Vân Tự nhận làm đệ tử và xuất gia từ đó.
Chú lặng lẽ quỳ sau lưng Thầy, tiếng mõ nhẹ nhàng thanh thoát đưa tâm
hồn chú phiêu linh, chú nghe tiếng gọi từ cõi mơ hồ, một giọng nữ ngân vang:
-
Hãy
theo ta! Nơi của con không ở chốn này.
Chú như mộng du lùi dần ra cửa, chú bước theo vầng sáng lung linh xoáy
tròn giữa hai con mắt. Chú băng băng qua rừng bạch đàn sau chùa, đường mòn như
có lân tinh sáng màu trăng, trải vàng phía trước. Người mệnh phụ ban chiều như
sương như khói, đưa tay vẫy, chú bước càng nhanh. Con sông lấp lánh, gợn sóng
lăn tăn, ánh lên màu bạc. Mặt nước rẽ đôi, chú lầm lũi bước theo vầng sáng ma
mị.
Chú Dũng nghe nhiều giọng rất trẻ, gào lên than van nhớ mẹ, họ đã chết khi
chưa đủ lớn nay thành hồn ma bóng quế, sống vất vưởng không nơi nương tựa. Họ
chỉ còn biết ngưỡng vọng tôn thờ Tam tòa Thánh Mẫu, họ nương theo để hưởng chút
hương hoa ngày vía.
Thầy Thích Như Tuệ đã viên tịch, hệ thống chùa chiền bị phân hóa, quan niệm “Tôn
giáo phi chính trị” đã lỗi thời, người đời không còn nơi bám víu. Phật,
Chúa và Thượng đế mơ hồ, đức tin chỉ còn trong lòng những người hiền lương
nhưng khốn khó.
Mẫu Thượng Ngàn rùng mình khi nhìn những khuôn mặt nung núc phủ phê no
đầy, đang lim dim tụng kinh ê a mà đạo hạnh buông thả theo dục vọng đời thường.
Tiếng trống cầm canh mơ hồ đội về từ cõi thiên thai hay địa ngục, những
cô hồn lầm lũi cúi đầu đi về nơi họ đã nằm xuống: Rừng sâu núi thẳm, sông rạch
ao hồ, trên những con đường gồ ghề đầy vết đạn bom hay trên đồi cao mịt mù
sương khói...
Lời cầu siêu nào dành cho những oan hồn vô danh tính? Nếu đời không còn
chân, thiện, mỹ sẽ đưa ta đến chốn trầm luân? Sự dốt nát dễ bị lừa mị nhưng
cũng dễ ngộ ra chân lý, khi không còn niềm tin.
………
Người mệnh phụ sang trọng kia vẫn không quên được tình yêu thánh thiện
của mình, càng không thể quên nên nỗi oán thù càng dậy sóng đeo đẳng theo bà.
Đôi khi bà tự vấn lòng mình và lặng người nghiền ngẫm chân lý muôn đời, sự hiển
linh đã minh định:“Khổ hải mang mang/ Hồi đầu thị ngạn”(Biển khổ mang mang/
Quay đầu lại là bờ).
Đã biết vậy, nhưng lòng tiếc nuối khôn nguôi những ngày thơ mộng đầu
đời. Oan gia cho bà gặp lại người xưa nay thay hình đổi dạng, sự ân hận và quay
về bến giác của người có chuộc lại lỗi lầm đã đẩy đưa bước chân bà đến chốn khổ
đau và bà có ray rứt khi quay lưng với giọt máu của mình vì sự hào nhoáng của
gia đình danh gia vọng tộc?
Sự sang trọng và nét đẹp quý phái kia không mang lại niềm an lạc cho bà,
tất cả vật chất trên đời, lầu son gác tía chỉ là mảnh phù vân, chỉ có tình yêu
trong bà là vĩnh cửu. Khi chạm mặt, lòng bà dâng lên niềm ai oán nhưng bà đành
lòng quay lưng.
Thầy trụ trì lim dim lần tràng hạt, tiếng chuông chùa ngân vang trong
không gian tịch mịch, nắng chiều còn sót lại những tia nắng vàng chói xuyên qua
tàn cây kẽ lá đồi thông, như ánh hào quang từ cõi Tây phương cực lạc. Thầy thở
dài nhớ về mối tình trong tuyệt vọng năm xưa, chàng sinh viên nghèo đã gieo vào
lòng cô tiểu thư khuê các niềm tin yêu và ngưỡng mộ, nhưng không hề biết đã để
lại trong cô một sinh linh đã tượng hình khốn khổ trên thế gian này.
Chú Dũng quay về, màn đêm tím sẫm, ánh trăng lưỡi liềm non và những vì
sao long lanh soi sáng lối mòn giữa rừng bạch đàn, thấp thoáng bóng dáng ngôi
chùa Thiên Vân Tự lúc ẩn lúc hiện trong sương. Người đàn bà sang trọng như có
ma lực, hình ảnh của bà không hề rời khỏi tâm trí chú.
Chú nhớ lời Phật dạy: “Nếu không
nợ nhau, làm sao gặp gỡ”. Người tình kiếp này là vợ chồng kiếp trước, nối tiếp phần duyên phận
chưa dứt. Hồng nhan tri kỷ của kiếp này, là anh em kiếp trước, sẻ chia cho hết
nợ. Nhân quả luân hồi, duyên nợ tiền kiếp khiến chú gặp bà nhưng duyên khởi
chưa tàn, chỉ là số kiếp mà thôi!
Đứa con trai oan
nghiệt bà đã bỏ lại trước cổng nhà vị cư sĩ năm xưa, nay đã theo bước chân tu
hành của người cha, vị đại đức đạo hạnh đáng kính trong ngôi chùa thâm nghiêm
kia.
Chú Dũng dừng chân giữa mênh mông sóng nước tách đôi dòng, những vì tinh
tú lấp lánh diệu ảo Tây phương thấp thoáng hào quang đức Thế tôn từ bi, độ
lượng. Dòng bên kia, những lâu đài điện ngọc lơ lửng trong chín tầng mây, sương
mù giăng kín lối, lập lòe ánh đuốc ma trơi, lũ quỷ sứ nhởn nhơ hát vang bài ca
ngày tận thế.
Chúng bóc trần những linh hồn khô máu, đày đọa đến tứ cố vô thân những
oan hồn rách nát. Chúng sống bê tha như loài không tri giác, để lãng quên nỗi
khổ làm người hay cố quên thân phận ngu si, lầm đường lạc lối của mình?