Thứ Hai, 28 tháng 6, 2021

KHẮC KHOẢI


     Sự đồng cảm không cần lời. Cái siết tay chặt chẽ như trao niềm tin yêu. Ánh mắt, nụ cười ấm áp, lời ăn tiếng nói tế nhị, kèm theo chút phong cách lịch lãm. Chỉ thế thôi, tôi đã thuộc về anh.

     Anh - con người từng trải. Sự nhìn nhận về cuộc sống chảy ngược vào nội tâm, nằm im. Nếu khơi mạch nguồn, dòng nước hiếm hoi len lỏi theo que vạch ngoằn ngoèo, rỉ ứa tinh châu pha màu huyết lệ, rồi tuôn trào trong thổn thức.

     Anh kể:Anh sinh ra đời trong nhung gấm, với người mẹ đơn thân. Người ta không biết cha anh là ai, ngoại trừ mẹ. Nhưng mẹ im lặng.

     Ba tuổi, anh được đi lưu diễn cùng mẹ. Ngủ nghỉ trên máy bay, khách sạn “deluxe” chiếm hơn hai phần ba thời gian thường ngày, cùng chị vú nuôi.

     Năm tuổi anh vào nội trú. Anh cũng từng khốn khổ vì các soeur ở trường nội trú. Anh tính tình ương bướng, nghịch ngợm. Mẹ nói để các soeur dạy dỗ cho thuần tính lại. Có khi nửa năm, anh không gặp mẹ. Các nữ tu thường khô cứng và nghiêm khắc, ấn tượng về các Soeur là như vậy, cho đến năm mười hai tuổi, anh gặp Dì Catherine.

   Anh thực sự bị lôi cuốn bởi vẻ đẹp hiền dịu, trầm tĩnh của Dì Catherine, rất tương phản với những gì thuở nhỏ anh nghĩ về các soeur. Thuở ấy, anh cho rẳng các soeur không biết yêu, hay ít nhất cũng là không được phép nghĩ đến tình yêu nam nữ bình thường, mà chỉ… yêu kính Chúa!

     Anh ngưỡng mộ và yêu tha thiết Dì Catherine. Đáp lại, đôi mắt Dì nhìn anh đắm đuối, nồng nàn thăm thẳm. Mười lăm tuổi, Mẹ đưa anh ra khỏi trường các Soeur. Một thời gian dài, anh như chết điếng, hụt hẫng khi không còn Dì Catherine bên cạnh. Nhưng sự sinh hoạt ồn ào của thành phố, đẩy anh đi rồi quen dần với nhịp sống vội vã. Mãi sau này lớn lên, anh mới nhận và hiểu ra, câu nói của Dì Catherine: “Tôi cũng là một con người”.

     Anh tốt nghiệp khoa luật đại học Sorbonne, Paris.

     Tên "Sorbonne" còn gắn liền với phân khoa thần học, tuy đây chỉ là một trong nhiều phân khoa của trường. Vì là trung tâm nghiên cứu thần học quan trọng, "Sorbonne" đã trở thành gần như đồng nghĩa với Khoa thần học của Đại học Paris.

     Anh ra trường không lâu, mẹ anh bị tai nạn máy bay qua đời, trong lần dự định ra mắt liveshow quan trọng của bà.

     Sự thăng tiến của anh trong nghề nghiệp, đem lại vinh hoa và nổi tiếng hơn mẹ anh, lúc sinh thời. Có lẽ ánh hào quang lấp lánh của mẹ, đã độ trì cho anh.

     Anh dò tìm nguồn gốc của mình, qua những người quen biết cũ của mẹ. Ai cũng nhìn anh với cặp mắt háo hức, tò mò. Mong tìm nơi anh nét thân thuộc di truyền. Sự ân cần thái quá làm anh ngại ngùng.

     Người đàn ông tóc hoa râm, đội mũ bê-rê, trông phong trần rất lạ. Hằng ngày vẫn đạp xe qua đây với cặp mắt không buồn, không vui. Đôi khi ánh lên nét ngây thơ ngồ ngộ. Dường như mọi vật dưới mắt ông đều không thật. Đôi lúc ông dừng xe, ngắt chiếc lá bên đường đưa lên mũi ngửi hay nhìn chăm chăm vào ngọn đèn vàng ệch ven đường, rồi quày quả đạp xe đi như chạy trốn một cái gì.

    Ý nghĩ thoáng qua hay linh cảm? Nhiều buổi chiều muộn, anh chờ người đàn ông tóc hoa râm đạp xe ngang qua. Suốt những ngày sau đó, anh chờ đợi trong mỏi mòn, vô vọng. Có khi suốt phần đời còn lại, không hề gặp. Ông ta là ai? Sự tò mò, khiến anh càng háo hức mong tìm.

     Hòm thư ngoài cổng loé lên góc chiếc phong bì, không tên người gởi. Anh bóc vội, bên trong còn chiếc phong bì riềm thư xanh đỏ PAR AVION đã cũ, ố vàng… Anh hồi hộp, chữ viết trên lá thư, nét chữ của mẹ anh:“… Rồi từ ngày ấy sống trong nam nơi kim tiền/ Bụi trần giọng hát tấm thân xinh đôi mắt hiền / Đời nghèo không lối thoát em tôi đành thôi cúi đầu mà đi / Xuân năm nay, đường đêm Ca-ti-na/ hoa mai rơi, rủ nhau nơi phương xa/ Dần trắng xóa mặt đường, một người con gái nhớ người thương…”(Gửi người em gái miền Nam – Đoàn Chuẩn & Từ Linh).

     Anh đọc đi đọc lại, không hiểu mẹ anh muốn nói gì. Người được nhận là cha anh? Ai gửi anh lá thư này?

     Mẹ anh, người con gái Hà Nội. Được sinh ra trong gia đình khuê các. Mẹ mất, nghĩa là con đường tìm về nguồn mờ mịt.

     Một ngày kia, tình cờ anh nhìn thấy người đàn ông tóc hoa râm bên bờ hồ, vẫn với điệu bộ ngớ ngẩn, ngắt lá ven đường, anh băng mình chạy đến hối hả. Người đàn ông giật mình, mặt tái mét, đôi mắt trợn trừng nhìn anh, rồi ngất lịm. Ông đã qua đời.

     Người đàn ông tóc hoa râm là nhạc sĩ B.S. tài hoa. Ông là công tử Hà thành. Dãy nhà mái ngói rêu phong trên phố Hàng Bạc, trong khu phố cổ là gia sản mấy đời nhà ông. Khu phố cổ Hà Nội, nằm ngoài hoàng thành Thăng Long. Thời Lê, giữa khu này có hồ Thái Cực. Sông Tô Lịch nối với hào thành, các đầm hồ, thông với hồ Hoàn Kiếm và sông Hồng. Đến cuối thế kỉ 19 thì các sông hồ đã bị lấp, nhưng vẫn còn để lại dấu tích qua các địa danh: Hà Khẩu, Giang Khẩu, Cầu Gỗ, Cầu Đông.

     Ông để lại những tuyệt tác, đi vào lòng người, bao thế hệ. Mẹ anh là giai nhân, thiên kiều bá mị.  Cô tiểu thư duy nhất, con nhà quyền quý, nữ sinh trường Đồng Khánh - College de Jeunes Filles. (Trường nữ sinh Đồng Khánh được thành lập năm 1917, nay là trường THCS Trưng Vương – Hà Nội). Bà tốt nghiệp khoa Thanh nhạc, học viện Âm nhạc Quốc Gia Việt Nam (Nhạc viện Hà Nội ngày nay).

     Duyên tình không đến được cùng nhau. Cha mẹ bà không chấp nhận chàng nghệ sĩ tài hoa, đã làm ngây ngất bao trái tim thiếu nữ thiên kim, khuê các lẫn vương tôn công tử.

     Nhưng người nhạc sĩ vang bóng một thời ấy, không phải là cha anh.

     Nổi ê chề, đau buốt tiềm ẩn lạnh băng. Những góc khuất đẩy đưa anh chơi vơi giữa giòng đời nhiều biến động sau này.

     Ngày mẹ hoài thai anh. Mẹ được gởi vào Saigon hoa lệ – Hòn ngọc Viễn Đông. (Tiếng Pháp: la perle de l'Extrême-Orient - một mỹ danh được Pháp dùng để chỉ thành phố Sài Gòn, thủ đô của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp thời kỳ đầu thế kỷ 20).  

     Các vũ trường Maxim’s, Kim Sơn, Đại Nam, Queen Bee, Tự Do… đã nâng bước chân cô ca sĩ, thăng hoa trong ánh sáng lung linh sắc màu, ngập tràn tinh hoa nghệ thuật.

     Thất vọng với tình yêu như mơ. Mẹ cho đi một lần, để còn nhớ mãi trong đời. Nhưng ai? Mẹ có phải là mẹ của anh?

     Mùa đông, những chiếc lá bàng chuyển từ vàng nâu sang đỏ tía. Cơn gió bấc lạnh run người, cuốn mép, kéo theo những chiếc lá rơi rụng. Lặng thinh, không còn nghe tiếng xào xạc trên mặt đường, nhếch nhác bởi mưa phùn. Chỉ còn trơ trụi những cành khẳng khiu, dang tay trông vời về đâu đó, trong niềm u uẩn xa xưa.

    Anh rời xa Hà Nội trong lòng nặng trĩu ưu tư. Trời đất không còn bình yên. Chiến tranh càng dữ dội, điêu tàn. Miền Tây bắc hoang sơ thành bãi chiến trường :

     Kể từ ngày đất nước chia đôi. Cuộc đời anh mất hẳn cội nguồn, mang thân phận lạc loài ngay chính trên quê hương mình.

     Khung trời nghệ thuật miền Nam trong hai thập niên năm, sáu mươi như trăm hoa khoe sắc. Anh thành lập thư viện cộng đồng và trung tâm bảo tồn & phát triển văn chương, nghệ thuật. Anh mời các nhà nghiên cứu, học giả tài danh về cộng tác.

     Saigon đang giữa mùa mưa. Mùa thu phương Nam không có gió heo may, khô và se lạnh như mùa thu Hà Nội. Cơ duyên đưa anh về trại tạm cư giáo xứ Hà Nội ở  Hố Nai, Biên Hoà. Anh gặp cụ Hàn. Cụ đã từng dìu dắt bao thế hệ tại Học viện Âm nhạc Quốc Gia. Cụ biết gia thế mẹ anh và … cụ biết rõ: Anh không phải là con của mẹ. Anh là đứa trẻ bị bỏ rơi trước cổng nhà mẹ, khi chưa tròn thôi nôi.

     Anh không “sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu” như lời Xuân tóc đỏ, trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng. Mẹ đã nâng niu, chăm sóc, nuôi dưỡng anh thành tài cho đến ngày mẹ xa anh và đến tận bây giờ. Những giọt nước mắt chỉ làm long lanh thêm đôi mắt sáng, chảy ngược vào lòng anh.

     Anh hiến tặng viện mồ côi “AN NHIÊN” toàn bộ tài sản. Anh tìm về cõi an bần lạc đạo. Như ngày xưa, anh mới về với me.

     Anh cũng hít thở không khí trời. Nhưng anh không hiện hữu trong mắt những ai, không có lòng nhân ái. 

Thứ Bảy, 26 tháng 6, 2021

SƯỚNG “CÙ LẦN”

     Hai Sương cố cạy hòn đá nằm ngăn mạch nước, ai dè cả tảng đổ sụp đè hai chân gãy ngang ống quyển. Đời chó đẻ, đùm đế vợ con lên cái xứ khỉ ho cò gáy cũng không yên.

Sáu Sướng nghe tin anh mình bị nạn vội bỏ hết chuyện nhà, lận lưng tiền bán mấy con heo lên bệnh viện thăm nuôi anh. Ông bà cả Di không biết có ý gì mà đặt tên con toàn chữ S: Hai Sương, ba Sanh, bốn Sự, năm Sung, sáu Sướng…
Ra đời cách nhau năm một, ngũ hổ tướng thời Thục Hán dũng mãnh ít ai bì nhưng năm thằng con nhà cả Di hiền khô. Chậm chạp nhất trong nhà, ít nói siêng làm là sáu Sướng, nên ông cả Di gọi là Sướng “cù lần”!
Cù lần là động vật hiền lành, khờ khạo hay còn gọi con cu li, xấu hổ, khỉ gió. Sống vào ban đêm, ngày ngủ. Khi gặp tiếng động hay người chỉ biết cuộn tròn thân mình, dùng hai tay che kín đôi mắt. Đối với cù lần khi không thấy gì, nghĩa là không có gì nguy hiểm cả.
Từ hai Sương đến năm Sung, khi đủ lông đủ cánh thì bay, đứa vào tận Saigon đứa lên cao nguyên đứa ra miền Bắc. Hầu như từ chăm sóc cha mẹ đến việc trong nhà ngoài ngõ, chỉ mình sáu Sướng “cù lần” lui cui quán xuyến.
Nhiều lúc bà cả Di than thầm:"Trong nhà suốt ngày không nghe tiếng nói!”. Ông cả Di chúi mũi vào mấy cuốn sách với bình trà, còn không thì vác cuốc ra đồng hoặc khề khà với mấy ông bạn già. Nhưng chỉ cần nghe bà ho nhẹ một tiếng hay rêm mình rêm mẩy là hai cha con quýnh quáng như gà mắc đẻ.
Từ hôm Sướng “cù lần” đi, hai ông bà than ngắn thở dài. Đêm nằm cứ trở mình khó ngủ, ông cả chắp tay sau đít đi tới đi lui, làm bà sốt ruột:
- Thằng Sương có chi không hè? Hắn đi ba tám ngày rồi, ông có nghe hắn nói gì không?
Ông chỉ tay vào cái điện thoại cùi bắp của Sướng “cù lần” để lại ở nhà:
- Hắn nói không sao!
Thật ra lòng ông cũng lo ngay ngáy, ngày nào ông cũng lật qua lật lại cái điện thoại, nhưng nó như cục gạch nằm im ru. Có khi nó hết pin rồi không chừng!
Bà không biết ổng nói “hắn” là thằng nào, thằng Sương hay thằng Sướng? Hồi còn nhỏ cũng lo, đến khi có vợ có con lại càng lo hung! Không biết chết rồi có còn mang nỗi lo theo không? Càng nghĩ lung, bà càng nhớ mấy đứa cháu nội quay quắt…
Năm kia Sương dắt hai đứa con lớn về, gầy nhom đen như mọi núi. Bà Cả dụ ở lại với bà, nhưng hình như chúng nó học thói cù lần, lấy hai tay che hai con mắt không nói không rằng.
Thời ông bà còn trẻ, cả làng nổi đình nổi đám quanh năm. Chuyện đồng áng mỗi năm chỉ có hai mùa tháng ba, tháng tám vậy mà vẫn sung túc an vui. “Tháng Giêng là tháng ăn chơi, tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè…”. Bà con cả làng như gia đình lớn, tình làng nghĩa xóm thắm đượm gắn bó keo sơn. Tình người đáng lý ra phải lan tỏa và thăng hoa theo ân tình cuộc sống, nhưng sao cứ nhạt dần như nước ốc luộc lần ba, lần tư…
Hôm kia, ông Hương Giảng chết không có người khiên quan tài, trẻ trai “thoát ly” ruộng đồng bỏ lại bọn già như bó củi khô. Bây giờ bếp núc xài Gaz, thân gỗ mục dần lên rêu lên mốc theo nắng theo mưa.
Mái ngói âm dương của căn nhà sống đã bốn đời, cứ mỗi ngày một tàn tạ, chằm vá đủ kiểu bằng những tấm nylon nhiều màu sắc, nghe như reo phần phật thở than khi trời trở gió. Thế hệ nối tiếp như đám con ông, ngày càng nghèo càng khổ lấy đâu tu bổ từ đường.
Sáu Sướng “cù lần” bỏ túi xách lên chỏng tre, mồ hôi túa ra ướt đầm lưng áo. Bà Cả hỏi dồn hỏi dập:
- Hắn ra răng? Khỏe chưa, khi mô hắn dzề? Mấy đứa nhỏ mô, sao mi không dắt về một đứa? Ông ơi là ông, cái thằng…
Bà khóc bù lu bù loa, ông Cả ngồi lặng thinh vân vê điếu thuốc lá đã tắt ngấm từ lâu.
Hai Sương đã chết vì nhiễm trùng, qua hai lần mổ ghép xương. Sáu Sướng lấy hai tay che mắt như con cù lần, nuốt nước mắt mặn chát vào trong.
Nguyễn Châu
Có thể là hình ảnh về ngoài trời
6 bình luận
Thích
Bình luận
Chia sẻ

ĐI TÌM HÀNH TRÌNH CỦA CHA TÔI

     Ông nội tôi là thầy đồ, con đông. Cha tôi thứ bảy.

Cha sinh năm 1918 (Mậu Ngọ), nhưng khai sinh ghi 1916.
Trước năm 1939, người ta nhìn thấy những tấm áp-phích: "Mẫu quốc đang gặp nguy. Nghĩa vụ của bạn là giúp đỡ mẫu quốc”.
Cha tôi tình nguyện đi “Tây” thay bác tôi, đã có gia đình. Mỗi nhà ít nhất, phải một người đi. Trước ngày lên đường, ông tôi đem trầu cau hỏi vợ cho cha. Mong sự ràng buộc này, cha tôi sẽ trở về, dù cha chưa biết mặt người hôn thê của mình.
Làng tôi thuần nông, lúc đó rất nghèo. Chỉ có bác Sáu, chú Mười và cha tôi học được chữ Nho từ ông nội. Các cô không ai biết chữ...
“Năm 1939, nước Pháp đã đưa 20.000 người từ thuộc địa Đông Dương sang Pháp để làm những công việc cực nhọc, như trộn thuốc súng. Phần lớn họ bị tuyển mộ cưỡng bức.
Tàu cập bến Marseille, họ bị đưa vào nhà tù Baumettes, rồi được phân bổ đi khắp nước Pháp, đến những xí nghiệp thuộc ngành quốc phòng và được gọi là “lính thợ không chuyên” – ONS (Ouvriers Non Spécialisés)
Có người bị sung vào lính chiến đấu ở Pháp, đánh nhau với quân Đức. Từ năm 1946, họ được đưa trở về Việt Nam một cách nhỏ giọt và mãi đến năm 1952, những người cuối cùng mới được trở về tổ quốc. Khi đó, cũng có khoảng một nghìn người đã chọn định cư tại Pháp”(1)
Cha tôi làm lính thợ. Trong một lần nhà máy bị ném bom, cha bị thương, mảnh đạn xuyên qua phổi. Bệnh viện Marseille đã cứu cha tôi, nhưng sau này để lại di chứng nặng nề, khi trái gió trở trời.
Ở quê nhà, mỗi tháng nội tôi được lãnh tiền. Nhận được tiền, ai không mừng. Nhưng ông bà tôi yên lòng, vì cha tôi còn sống.
Đệ nhị thế chiến (1939-1945) kết thúc, cha tôi sống cuộc đời lưu vong, không được hồi hương. Cha tôi học nghề sửa đồng hồ và hành nghề lưu động. Tôi mường tượng trên con đường hoa lệ của kinh đô ánh sáng Paris, một người da vàng thuộc địa là cha tôi, đang lang thang với chiếc thùng gỗ “sửa đồng hồ”. Tôi ứa nước mắt.
Mãi đến 1948. Chuyến tàu buôn của Pháp cập bến sông Hàn. Cha tôi trở về với thân hình tiều tuỵ. Nhưng cha không thể về thăm ông bà tôi. Những người nông dân hiền lành, chất phác quê tôi, đã được trang bị căm hờn. Nhất là đối với những gia đình có người làm tay sai cho thực dân, đế quốc.
Cha nhắn cô Lan ra Đà Nẵng. Cô đi từ lúc gà chưa gáy sáng, đôi chân trần vượt hơn hai mươi cây số. Đã mười năm qua, anh em mới có dịp trùng phùng. Cô ôm cha tôi khóc ngất.
Lần đầu tiên trong đời, cô thấy cây lụa Lãnh Mỹ A. (Lụa được dệt từ tơ tằm hảo hạng, nhuộm đi nhuộm lại hàng trăm lần nhựa trái mặc nưa, trong suốt gần nửa năm trời. Lụa trơn, đen láng, mặc vào người như được vuốt ve trên da thịt. Mùa hè mát rượi, mùa đông ấm áp. Càng mặc, càng giặt, càng đen huyền). Lụa Vạn Phúc, Hà Đông. Vải sợi bông, vải tơ tằm… Cha nhìn cô Lan, áo quần vải tám thâm đen, ống quần cao hơn mắt cá. Hai anh em nước mắt dâng tràn.
Cô gánh oằn vai, món quà quá xa xỉ đối với nhà nội tôi.
Ông nội chưa kịp mặc quần áo mới, ông mất. Được tin, cha tôi băng đồng, chạy bộ. Trăng lên đến đỉnh đầu, cha về lại mái nhà xưa. Bà nội mắt đã mờ, không nhìn rõ mặt cha tôi, sờ đầu sờ cổ, hết khóc lại cười. Đám tang nội tôi to nhất làng. Cúng tế linh đình hơn ba ngày trời.
Bạn chăn trâu với cha tôi, nay là cán bộ Việt Minh. Không ai thù hằn, không ai bắt bớ cha tôi.
An dưỡng ít lâu, cha gặp mẹ tôi. Bà đã có một đời chồng, chồng theo Việt Minh bị tây bắn chết. Người đàn bà nội tôi đi hỏi cho cha ngày xưa, nay không biết lưu lạc phương nào.
Cha mua đất cất nhà, láng giềng của ngoại. Mẹ theo ghe bầu của ông ngoại ngược xuôi theo dòng sông Hàn vào tận Phan Thiết, Saigon. Lâm thổ sản: tơ lụa Duy Xuyên, quế rừng Trà My, mật ong, vỏ cây chay (ăn trầu) được đổi trao với hàng nông, hải sản phương Nam.
Ngày cha thành hôn với mẹ, không có họ hàng bên nội. Ông ngoại chỉ cần tính cần cù và tấm lòng của cha tôi làm sính lễ.
Cha không biết tiêu tiền. Ông chắt chiu từng đồng xu nhỏ. Nhưng ông tiêu tiền cho người khác.
Mẹ tôi có nhiều áo dài, thời trang lúc bấy giờ. Cha tôi chỉ có một bộ veston và đôi giày từ thời bên Pháp mang về. Những gì tốt nhất, cha dành cho mẹ tôi.
Mỗi cuối tháng, cha ra ngân khố lãnh tiền trợ cấp từ chính phủ Pháp. Các dì gọi cha tôi: Anh Bảy “kiều bào”. Mẹ tôi hãnh diện lắm, mỗi lần có tiền mẹ tôi chi xài thoải mái và hào phóng như “Tây”. Cha tôi chỉ nói:”- Đàn ông như cái nhà, đàn bà như cái cửa”, vậy thôi.
Năm 1949, cha tôi được điều động làm cai “lục lộ”(quản lý đường sá) ở Mỹ Chánh, Quảng Trị. Chị An, con riêng của mẹ, được hai tuổi chị mất. Tôi được hoài thai.
Cha đưa mẹ ra Huế, tiện bề chăm sóc và an ủi.
Mùa đông năm ấy rét đậm. Cha ho dữ dội, bệnh phổi tái phát. Cha đưa mẹ về Đà Nẵng, rồi theo tàu lửa vào Saigon, bệnh viện Grall. Qua tết Canh Dần (1950), cha tôi vẫn chưa về. Tôi ra đời tại “nhà thương” Bà Quế.
Cha được chuyển sang Pháp. Ông bị lao phổi nặng, điều trị ở bệnh viện Saint Hilaire du Touvet, Grenoble. Thời đó bệnh lao phổi chưa có thuốc chữa trị như ngày nay. Các bác sĩ Pháp nơi ông điều trị, chẩn đoán ông không thể sống hơn một năm.
Trong thời gian nghỉ dưỡng bệnh ở Pháp, ông tình cờ biết được phương pháp hít thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện:
“ Thót bụng thở ra
Phình bụng thở vào
Hai vai bất động
Chân tay thả lỏng
Êm chậm sâu đều
Tập trung theo dõi
Luồng ra luồng vào
Bình thường qua mũi
Khi gấp qua mồm
Đứng ngồi hay nằm
Ở đâu cũng được “
Nhưng đã hơn một năm, cha tôi không chết. Lần này ông được chính phủ Pháp cho về bằng máy bay của hãng hàng không Air France. Cha đã khoẻ mạnh hơn xưa.
Quê hương tôi không bình yên.
“Tại miền trung, Việt Minh kiểm soát từ Hội An đến Mũi Đại Lãnh, gần như ngăn đôi đất nước. Người Pháp chưa bao giờ tỏ ra muốn "giải thoát" cho thuộc địa cũ.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945,Việt Minh cướp chính quyền.
Bảo Đại đọc Tuyên ngôn Thoái vị trước cửa Ngọ Môn, Huế.
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập Quốc gia Việt Nam, hội viên trong khối Liên hiệp Pháp đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại. Đầu năm 1950, Hoa Kỳ bắt đầu chính thức gửi viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông Dương.
Mỹ tuyên bố "ủng hộ nguyện vọng độc lập dân tộc tại Đông Nam Á" trong đó có Việt Nam, nhưng với điều kiện "lãnh đạo của những nhà nước mới không phải là người cộng sản".(2)
Người dân quê tôi như kiến bò quanh lòng chảo, không biết lửa đốt nóng lúc nào. Đất nước ngả nghiêng, trầm mình mang thân phận nhược tiểu đớn đau.
Cuối năm 1951, chú Chín tôi cõng bà nội tránh càn của Tây. Chạy vừa đến gốc đa, chưa kịp xuống hầm đã bị bắn chết. Bà tôi già và mù nên được tha. Cha từ Quảng Trị hay tin, về đến nhà, bà tôi cũng đã qua đời.
Cha tôi cũng là con kiến. Lòng dân đất nước tôi không còn đồng lòng như loài kiến, loài ong. Sự phân hoá thê thảm, thù nghịch bởi những luận điệu ghê tởm đã len lỏi vào sự cả tin của đồng bào tôi, từ nhiều nguồn, nhiều hướng.
Cha tôi mắt trừng trừng, phẫn uất. Sự hoang mang, chông chênh phận người, lênh đênh giữa dòng nước xoáy, hai bờ mờ mịt mù sương.
Ngóng trông về quê nhà tan hoang lửa khói. Các cô tôi chưa chồng di cư ra thành phố ở với mẹ tôi. Chú Mười và các dượng (chồng cô) theo Việt Minh làm du kích. Bác tôi nối nghiệp ông nội làm thầy địa lý, tụng kinh cầu siêu cho những vong hồn bất đắc kỳ tử.
Mùa thu năm 1953. Khi tu bổ đường quốc lộ từ Quảng Trị vào Huế, cha tôi bị mìn, cưa mất một chân. Cả nhà ngoại tôi an ủi: Vậy cũng còn may.
Hội nghị Genève khai mạc ngày 26 tháng 4 năm 1954 để bàn về vấn đề khôi phục hoà bình ở Đông Dương. Nhưng đau lòng vì chia đôi đất nước.
Tại miền nam, Ngô Đình Diệm truất phế Bảo Đại. “Ngô Đình Diệm là một nhân vật gây nhiều tranh cãi trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Một số sử gia coi ông chỉ là công cụ chính trị trong tay người Mỹ, trong khi đó một số sử gia khác coi ông là nhà chính trị độc lập mang nặng truyền thống phong kiến Việt Nam. Một số nghiên cứu gần đây còn cho biết rằng Ngô Đình Diệm là người tự cho mình đang gánh vác một "Sứ mệnh từ thiên đàng" (Mandate of Heaven) và ông có viễn kiến riêng về hướng phát triển của miền Nam Việt Nam” (3)
Bác tôi bỏ vợ con, tập kết ra Bắc. Gia đình chú Mười bị tố “cộng sản nằm vùng”. Cha tôi được chính phủ Việt Nam Cộng Hoà mời tham gia “thân hào nhân sĩ” tại địa phương. Nhờ đó, gia đình bác tôi, chú Mười được an thân.
Quê nội tôi yên ả nhất, có lẽ từ sau hiệp định Genève 1954 đến cuối năm 1960! Đúng là thái bình thật, không trộm cắp, cửa thường bỏ ngõ trong những đêm hè. Tiếng hò khoan trong mùa cấy tháng tám, tháng ba thoang thoảng theo làn gió bay xa.
Rồi một ngày những người không phải lính, nhưng mặc đồ màu đen mang súng, vào ở chung với dân làng…
“…Mùa xuân năm 1962, chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành Quốc Sách Ấp Chiến Lược mục tiêu căn bản là tách rời du kích, quân sự của Cộng Sản còn cài cắm ra khỏi nhân dân nông thôn, không cho dựa vào nhân dân để xây dựng cơ sở hoạt động phá hoại, cuối cùng là cô lập hoàn toàn phải ra hồi chánh hoặc bị tiêu dịêt…”(3)
Mùa hè lại về, cái nắng như thiêu như đốt, kèm theo gió hạ Lào khô khốc thịt da.
Xóm Nga Tiền khoảng mươi nóc nhà, có đến bốn bà góa. Những người chồng đã hy sinh hoặc bị bắn chết như chú Chín tôi trong thời kỳ chống Pháp. Tây càn, ông Nhì ôm súng leo lên cây đa. Ông ra đi khi bà Nhì chưa đến ba mươi. Rồi những năm sáu ba, sáu bốn, hưởng ứng phong trào "ba sẵn sàng" thế hệ tiếp nối như anh Đông, Diên, Dần, Cật, Bảy… lần lượt vào du kích và hy sinh khi chưa đủ lớn.
Tôi là ai? Lịch sử đất nước tôi bị quay vòng trở lại như ngày cha tôi bị cưỡng bức lên tàu sang Pháp làm cu-li cho mẫu quốc hay bỏ xác nơi hoang địa xứ người. Hai mươi năm tương tàn, cũng đủ cho thế hệ chúng tôi trở về nơi xuất phát của cha tôi.
Nguyễn Châu
Ảnh minh họa: Lính tập thời Pháp thuộc (Internet)
Nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Di%E1%BB%
Có thể là hình ảnh về 2 người, mọi người đang đứng và tượng đài
Khánh Đoàn Văn, Mộng Thu Ngâm Thơ và 49 người khác
22 bình luận
Thích
Bình luận
Chia sẻ

MỘT THỜI ÁO TRẮNG

(Kính nhớ các Thầy & Cô) Ngày ấy (1961) trường bán công Nguyễn Duy Hiệu do thầy Hồ Đài làm hiệu trưởng, thầy Lê Văn Đa giám học. N...