Ông Cả Trị tánh tình cương nghị, giọng nói oang oang đầu làng cuối xóm đều
nghe, tóc búi tó như ông đạo xứ đàng trong. Hội đồng hương chức không ưa ông.
Vùng đất thiêng sinh nhiều bậc kỳ tài, chuộng văn hơn võ. Hai Văn - con
trai lớn đam mê thơ phú nhưng bất bình,
đi làm quốc sự. Con thứ: Ba Chương ương
bướng từ nhỏ, khí khái hơn nguời, “kiến
ngãi bất vi vô dõng giả” như Lục Vân Tiên.
Ông Cả Trị hỏi Lý trưởng Bông:”-
Ông ở tầng nào trong giếng Thủ Bộ?”. Giếng Thủ Bộ là ao làng. Lý trưởng
Bông dộng ba-ton khảm bạc xuống nền gạch sân đình cạch cạch, quắc mắt:”- Ý ông là sao?”. Là ba ba, rùa, lương,
chạch, cá trê, cá lóc, cá mại, còng gió hay bèo? Mỗi loại chịu được tầng nước
nông sâu khác nhau! Lý trưởng Bông giận dữ bỏ đi một mạch, nhưng không hiểu ông
Cả Trị nói gì.
Anh Rân xé hai mép lá thuốc, vấn lại thành điếu đưa lên liếm xoay xoay,
chép miệng:”- Ông Cả cuồng chữ, có ngày
điên!”. Ông không dạy, nhưng các
bài vè đám chăn trâu nghêu ngao ngoài biền vô tư lự là của ông, nhưng nhói lòng
đám hội tề trong làng. Triền sông bên lở bên bồi, hơi đâu.
Hai Văn chán làm cách mạng, về làng. Nghe đâu Tôn Thất Thuyết tập kích
vào thành Mang Cá (Trấn Bình đài)
ngoài Huế, nhưng thất bại. Bị quân Pháp phản công nên phải đưa vua Hàm Nghi chạy về Tân Sở, hạ
chiếu Cần Vương.
Lý trưởng Bông nghĩ kế trả thù, nhưng ngại ba Chương đang theo học cụ
Nghè An. Tính hắn cứng đầu, ngang ngạnh nhưng thông minh, cụ Nghè yêu quý còn
định gã con gái cho.
Ông Cả Trị tra hỏi hai Văn:” – Tại
sao mi về? Mi có nhớ tấm gương lẫm liệt của quan phụ chính Trần Văn Kỷ theo hầu
vua Cảnh Thịnh không? Khi chúa Nguyễn không dụ dỗ được ông, trọng tài nên cho
hưởng “tam ban triều điển”. Trước khi chết, ông xin về quê bái yết từ đường,
nhưng đến ngã ba Sình, ông hô to:” Trung thần bất sự nhị quân”, rồi nhảy xuống sông tự vẫn. Mi hãy tự xử”.
Dòng sông Thu Bồn lững lờ trôi, ánh trăng hạ tuần gợn lên ánh bạc, biền
dâu xanh ngắt thì thầm trong gió. Hai Văn nhìn về hướng tây nam, mờ mờ dãy
Trường Sơn. Căn cứ Tân Tỉnh, Trung Lộc núi non hiểm trở, hào sâu vực thẳm, nơi
ẩn mình của nghĩa hội. Những người chí sĩ yêu nước như Trần Văn Dư, Nguyễn Duy
Hiệu, Phan Bá Phiến, Tiểu La Nguyễn Thành… đang ngày đêm quên ăn bỏ ngủ, tìm
mưu kế chống giặc.
Tiếng chim
ăn đêm bay ngang trước mặt hai Văn, rồi mất hút trong
bụi tre ngà bên kia sông. Anh nhìn đình làng mái ngói thâm đen, bức bình phong
lân mã trước sân bái đình nghinh đón linh khí trời đất, cầu cho quốc thái dân
an.
Lũ cường hào thẳng tay o ép, dân tình ly tán nơm nớp quằn mình như con
giun, con gián. Anh Rân cùng tráng đinh
bị bắt đi phu làm đường từ Lăng Cô băng qua đèo Hải Vân vào Đà Nẵng.
Hai Văn giã biệt làng quê yêu dấu, khoác túi lên vai. Từ Hương An qua
phà Tân An, xuyên Phú Bình đến sơn phòng Dương Yên. Đến nơi hay tin chủ soái
Trần Văn Dư bị bắt và bị xử trảm. Đèo Đá Bon hiểm trở, một bên là núi, một bên là ruộng bậc
thang. Lưng chừng đèo có một hòn đá rất to và có lỗ hổng bên trong, khi gõ vào
đá kêu bon, nên gọi là đèo Đá Bon, đây là căn cứ phòng thủ của Nghĩa hội Quảng
Nam. Toàn bộ khu căn cứ được bao bọc bởi hàng rào bằng tre, đầu vót nhọn, đan
chéo vào nhau như những bàn chông.
Hai Văn cùng anh em nghĩa hội tập kích vào đồn công binh của Pháp dưới
chân đèo Hải Vân. Người Pháp gọi là "một biến cố đau thương vừa xảy ra
ở Trung Ky" nên ra sức đàn áp, Nguyễn Thân xua quân càn quét rất ngặt. Thất trận ở căn cứ Phước
Sơn (thuộc Tiên Phước) Nguyễn Duy Hiệu và Phan Bá Phiến chạy thoát nhưng thế cùng lực tận, nghe lời thủ
lĩnh Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến uống thuốc độc tự sát. Không thể để nghĩa quân
toàn ba tỉnh bị giết hại, Nguyễn Duy Hiệu thủ tiêu toàn bộ danh sách, tài liệu
liên quan đến nghĩa hội.
“Chứng kiến cái chết của người đồng sự tâm phúc, Nguyễn
Duy Hiệu trở về quê thăm viếng mẹ già. Xong, ông ra miếu thờ Quan Công ở giữa bãi
cát Thanh Hà, mặc áo dài đen, đầu vấn khăn cẩn thận, ngồi xếp bằng trước bàn thờ,
rồi sai người đi báo cho Nguyễn Thân đến bắt ông…”
Nghĩa hội Quảng Nam tan rã.
Anh Rân về làng, thân hình tiều tụy
như con cò ma. Không bao lâu, lý trưởng Bông sung anh cùng tráng đinh
trong làng vào lính khố xanh.
Sau khi đàn áp phong trào Nghĩa hội Quảng Nam, Nguyễn Thân được triều
đình Huế cho lãnh chức Binh bộ thượng thư kiêm Tổng đốc Bình Định. Sau đó, được
trao chức Khâm mạng tiết chế quân vụ, lùng diệt cuộc khởi nghĩa Hương Khê do
Phan Đình Phùng lãnh đạo. Do thế yếu cùng binh tướng tan rã, Phan Đình Phùng
uống thuốc độc tự tử. Nguyễn Thân cho quật mồ Phan Đình Phùng, thiêu đốt thành
tro, rồi trộn với thuốc súng, bắn xuống sông La.
Hai Văn biệt vô âm tín. Ba
Chương được bổ đi làm Giáo thụ. Vốn tính khí khái và lòng ái quốc vô biên, anh
truyền thụ cho môn sinh những tấm gương sáng chói lòng yêu nước. Ca tụng phong
trào khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực, được danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt khen ngợi:
“Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa/ Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần.”
Thêm việc tát tai tri huyện N. do thói nịnh trên đạp dưới. Ba Chương giũ
áo từ quan về làng, mở trường dạy học.
Lũ sâu dân mọt nước hả hê, chúng dấu truyền đơn kêu gọi chống chính
quyền Bảo hộ, chống độc quyền bán thuốc phiện và rượu trong lu nước cạn khô của nhà Cả Trị.
Ông Cả Trị cười như điên, tay vuốt chòm râu bạc, nói với hương quản Trọng:”- Mi nhìn đi, dấu mấy ngón tay mi rành rành trên miệng lu. Bó truyền
đơn này cũng có, tau cho mi mọt gông!”. Hương quản Trọng mặt tái mét, giấu
hai bàn tay sau lưng, ấp a ấp úng.“- Tau
thương mi ngu dại, vợ khờ con đông. Mi cầm lên, đem ra ngõ đốt liền trước mặt
bà con ở đây. Tổ cha mi!”. Ngọn lửa bùng lên soi rọi khuôn mặt hắn, thớ
thịt run run theo ánh sáng bập bùng.
Ông Cả Trị đưa tờ giấy hồng điều, lật mặt sau biểu hương quản Trọng điểm
chỉ bằng tro than trộn mồ hôi của hắn. Hắn chưa nhìn ông, đã sợ, riu ríu nghe
lời, không cần biết ông viết gì.
Lý trưởng Bông nghe xong, đập bàn cái rầm. Kiểu này chẳng khác chi gậy
ông đập lưng ông, hương quản Trọng tay chân run như cầy sấy. “- Vậy chớ hắn viết cái chi mà mi điểm chỉ?”.
Lý trưởng Bông tái người khi thấy ông Cả Trị chống gậy đến trước sân,
lão xăng xái ra đón, giọng đẩy đưa:”- Chớ
ông Cả đi mô mà tạt qua đây? Xin mời, xin mời…”. Cả Trị lật vạt áo, lấy tờ
giấy hồng điều. Lý trưởng Bông rót trà, tay run run liếc nhìn ông Cả, lão cố lên giọng trấn áp của quan phụ mẫu:”- Tình hình trị an dạo này ngặt lắm nghe
ông Cả, tui nghe bọn nghĩa hội trốn về nằm quanh đâu đây”.
Cả Trị bật cười ha hả, tay búng nhẹ con sâu róm đang uốn mình bò lên mép
bàn, chậm rãi:”- Hắn lông lá thấy ghê, nọc
độc đầy mình, nhưng thoát xác thành loài bướm đêm đẹp mê hồn. Nó khác với các
ông, đem lời ma mị ngọt như mía lùi, nhưng chết người lúc nào không hay. Ông Lý
hay chọn nhầm người, dụng nhân như dụng mộc, cái thằng quá thật thà như Hương quản
Trọng, không làm chuyện thất đức được
đâu. Đời mà, ngưu tầm ngưu mã tầm mã!”.
Lý trưởng Bông cười giả lả mà như á khẩu. Cả Trị bước ra sân nghêu ngao:
“Trong
Nam, tên họ nổi như cồn
Mấy trận
Gò Công nức tiếng đồn
Đấu đạn hỡi
rêm tàu bạch quỷ
Hơi gươm
thêm rạng vẻ huỳnh môn
Ngọn cờ ứng
nghĩa trời chưa bẻ
Quả ấn
Bình Tây đất vội chôn
Nỡ khiến
anh hùng rơi giọt luỵ
Lâm dâm
ba chữ điếu linh hồn.”
(Văn tế Trương Định – Nguyễn Đình Chiểu)
Thành bại do thiên mệnh, xuất phát từ nhân tâm. Nhân tâm là thiên đạo,
tồn vong cũng chính từ đây.
Cả Trị kéo chéo áo lau giọt nước mắt ứa ra tự lúc nào, dáng liêu xiêu cố
rướn về đàng trước như mong tìm vừng hồng của buổi bình minh. Tia nắng hiếm hoi
của tiết đông chí làm bừng sáng mái đầu bạc trắng của ông.
Ba Chương vân vê thông tri của quan đốc học, đình chỉ hoạt động trường
làng của anh. Cấm chỉ “Khai
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.”(Phan
Chu Trinh). Bọn làm giặc toàn là bọn có chữ nghĩa. Lý Bông vỗ vai hương sư
Trịnh:”- Có vậy chớ! Lũ dân ngu khu đen
dễ sai, dễ dạy. Thật là quan trên sáng suốt!”
Cánh đồng làng không màu xanh, năm ni chắc
đói. Mùa màng sâu rầy đen nghịt, đậu đen đui ngọn, giàn đậu đũa trái dài thòng
nhưng không có hạt. Thiên không thời, địa không lợi, lòng người mất hoà hiếu,
ly tán.
Ba Chương ngậm ngùi nhìn ông Cả Trị, ngày
mỗi hom hem, chỉ còn đôi mắt nhưng đã mờ dần. Anh mong cha anh mù hẳn, tai điếc
đặc, có khi cha anh còn sống được lâu dài cùng con cháu.
Chữ Nho đã hết thời:“Nào có ra gì cái chữ
nho/ Ông nghè, ông Cống cũng nằm co/ Chi bằng đi học làm ông Phán/ Tối rượu sâm
banh, sáng sữa bò”(Chữ nho – Trần Tế Xương).
Ba Chương ngán ngẫm, đời như lá úa, lộng giả thành chân.
“Đạo học ngày nay đã chán rồi/ Mười người đi học, chín người thôi/ Cô hàng bán sách lim dim ngủ,/ Thầy khoa tư lương nhấp nhổm ngồi/ Sĩ khí rụt rè, gà phải cáo/ Văn trường liều lĩnh, đấm ăn xôi.”(Than đạo học – Trần Tế Xương).
Ba Chương ngán ngẫm, đời như lá úa, lộng giả thành chân.
“Đạo học ngày nay đã chán rồi/ Mười người đi học, chín người thôi/ Cô hàng bán sách lim dim ngủ,/ Thầy khoa tư lương nhấp nhổm ngồi/ Sĩ khí rụt rè, gà phải cáo/ Văn trường liều lĩnh, đấm ăn xôi.”(Than đạo học – Trần Tế Xương).
Đốc học T. trật chánh ngũ phẩm văn giai, xuất thân từ trường hậu bổ, vốn chỉ là ấm sinh con nhà quan được đặc cách. Lão ngồi chễm chệ, trong đầu chứa toàn đất đá, mưu mô và tư lợi. Lão ra thông tư cấm triệt học sinh các trường trong phủ mặc quốc phục. Phải chào cờ “tam tài” và hát quốc ca Pháp. Các quan Nam triều khăn xếp áo dài, riêng quan đốc học oai phong trong bộ comple – cà vạt. Quan không cận thị, nhưng cặp kính trắng lồ lộ luôn hiện hữu trên khuôn mặt tai tái, môi thâm như nghiện thuốc phiện của lão.
Người ta phát
hiện Cả Trị chết cong queo dưới gốc trâm già, vì ăn bả chó. Lạ một điều, da ông
không tím tái, miệng không sùi bọt mép như người nhiễm độc. Quan đốc-tờ khám
nghiệm qua loa, cho gia đình lãnh về chôn. Ông Cả chưa được hưởng chữ thọ.
Sau cái
chết của cha, ba Chương bỏ đi biệt xứ, ruộng vườn hoang hoá, cỏ mọc lút đầu.
Những đêm trăng, nghe tiếng kêu gào của lũ mèo hoang động đực, càng rợn người.
Dân làng khiếp vía, mùa màng thất bát, sưu thuế lại tăng.
Lý trưởng Bông thở phào, như nhổ được cái gai trong mắt.
Lý trưởng Bông thở phào, như nhổ được cái gai trong mắt.
Hướng tây nam, trông về Hòn Kẽm đá dừng mù mịt, sấm chớp liên hồi. Cơn mưa dữ dội từ Trường Sơn kéo về đồng bằng. “Cơn đằng Tây chẳng mưa dây cũng bão giật”. Bỗng sét đánh đinh tai, kèm theo tiếng gì rạn vỡ khô khốc. Bức bình phong lân rồng của đình làng nứt toác, như nhát gươm chém ngang, lìa đầu rồng lân. Điềm trời báo hiệu bất tường: Thần hoàng đã bay về trời. Địa bất linh, nhân kiệt cũng tiêu vong.