Lọt thõm giữa bốn bề núi đá. Nhìn từ trên cao, làng An Lạc được bao bọc
bởi hai dãy núi hình cánh cung úp mặt vào nhau. Tiếng suối reo róc rách liên
hồi, từ hai hướng Đông Tây đổ vào hồ nước trong xanh, rồi len lỏi qua bao ghềnh
đá đổ vào thác Pongour hay còn gọi thác Bảy tầng tại huyện Đức Trọng, Lâm Đồng.
Thác Pongour được tặng mỹ danh “Nam thiên
đệ nhất thác”. (Pongour là tên cho người Pháp phiên âm từ tiếng K’Ho.
Pongour có nghĩa là ông chủ vùng “đất sét
trắng”)
“Chuyện xưa kể rằng: Vùng đất màu mỡ này
do nữ tù trưởng K’Ho xinh đẹp tên Kanai cai quản. Nàng có tài chinh phục thú
dữ, trong đó có bốn con tê giác to lớn khác thường, luôn tuân lệnh Kanai và
cùng nàng dời non ngăn suối, khai phá nương rẫy trồng bắp, gieo lúa và sẵn sàng
xung trận chiến đấu chống kẻ thù, bảo vệ buôn làng.
Rằm tháng giêng, ngày đầu xuân trăm hoa đua
nở, nàng nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng. Ngạc nhiên thay, bốn con tê giác
quanh quẩn đêm ngày không rời thân chủ nửa bước, chẳng buồn ăn uống cho đến
chết. Bỗng một sáng bình minh vừa hé, mọi người hết sức ngạc nhiên khi thấy nơi
nàng yên nghỉ, sừng sững hiện ra ngọn thác Pongour đẹp tuyệt trần giữa thiên
nhiên.
Thì
ra, suối tóc Kanai đã hoá thành làn nước trong xanh, mát rượi, tung bọt trắng
xoá, còn những phiến đá bàn xanh rêu xếp từ cao xuống thấp, làm nền cho thác
Pongour đổ, chính là các cặp sừng của đàn tê giác hoá thạch mà người dân cho đó
là biểu tượng của sức mạnh đoàn kết, gắn bó vĩnh cửu giữa con người với thiên
nhiên bao la. Từ đó hình ảnh nữ tù trưởng Kanai luôn sống mãi trong tim mỗi
người dân bộ tộc K’Ho.
Và mỗi dịp trăng tròn đầu tiên của mùa
xuân ấm áp, núi rừng khởi sắc đã trở thành ngày tưởng niệm của bộ tộc K’Ho. Nam
thanh nữ tú khắp nơi rộn rã du xuân, mong vượt qua bảy tầng thác Pongour, được
vào chốn Thiên Thai, không phân biệt trai gái, sang giàu hay bất cứ dân tộc
nào. Họ cùng trao đổi tâm tình, tìm hiểu và yêu nhau bên thác Pongour. Cũng vào
dịp lễ hội mùa xuân này, những đôi trài tài gái sắc thường cùng nhau cầm hoa
đăng quỳ dưới chân thác Pongour cầu nguyện nàng Kanai để mong có được một tình
yêu chân thành, thủy chung và viên mãn”.
Làng An Lạc của người
K’Ho là Bon An Lac, theo “thị tộc mẫu hệ”
những căn nhà dài kế cận nhau theo dòng họ. Đứng đầu là già làng (Kuang Bon),
hiện thân của truyền thống và sự thống nhất cộng đồng. Chủ làng, chủ rừng
(Tombri), thầy cúng và các gia trưởng hợp thành tầng lớp trên của người K’Ho,
nhưng họ không có khái niệm giàu nghèo.
Người phụ nữ chủ động
trong hôn nhân. Sau hôn lễ, người đàn ông về nhà vợ ở, con cái theo họ mẹ, con
gái là người thừa kế. Tập tục cổ truyền của người K’Ho tuyệt đối cấm kỵ việc
kết hôn giữa những người có cùng một dòng họ, nhất là ở cùng một địa phương.
Con chú, con bác, con dì, không được lấy nhau. Trái lại, con cô, con cậu từ hai
phía có thể có quan hệ hôn nhân với nhau theo luật tục.
Sau khi vợ chết,
người chồng có thể kết hôn với người em gái của vợ. Và ngược lại, nếu chồng
chết, người vợ góa có thể kết hôn với người em trai của chồng, nếu đôi bên ưng
thuận. Hôn nhân của người K’Ho không có chuyện “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”,
trai gái yêu nhau được quyết định chuyện trăm năm của đời mình.
Thơ ca người K’Ho
phong phú, đậm chất trữ tình và giàu nhạc tính, bộ nhạc cụ cồng chiêng, kèn ống
bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (Sơgơr) có khả năng hoà âm hay độc
tấu. Sử thi người K’Ho có trường ca “Gơ-Plom-Kòn-Yồi” dài hơn 6.000 câu.
Tết của người K’Ho
vào khoảng tháng 12 dương lịch, sau khi thu hoạch mùa màng. Tết có ý nghĩa đưa
lúa về nhà (Nhô-Lirvong). Theo tập quán, các gia đình thay phiên nhau mỗi năm
hiến một con trâu để cả “Bon” tổ chức lễ đâm trâu (Nho-sa-rơ-bu), mọi người
nhảy múa theo tiếng cồng chiêng, máu trâu bôi vào trán của những người dự lễ
như sự cầu phúc, thịt trâu chia đều cho các gia đình trong “Bon”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét