Dù sau ngày quê hương thôi đạn nổ
bom rơi, nhưng ông bà cùng đàn con lít nhít đành tìm nơi khác ngụ cư. Chiều nay
ông Lân lên xe đò về nơi mấy mươi năm trước: Miền Đông Nam bộ - miền “đất dung
nạp”, ông chìu theo ý của bà:“Sống cái nhà, già cái mồ”.
Rừng cao su ngủ yên dưới làn mưa
bụi, bùn đất đỏ bazan như níu chân người. Ngôi trường xưa, nay đã đổi khác và người
cũng lạ lẫm nhau hơn. Những khuôn mặt non tơ, hồn nhiên nô đùa dưới hàng phượng
xanh um màu lá khiến lòng ông Lân nhớ về những ngày xưa cũ…
Cuối thập niên 79,
đầu những năm 80. Người tứ xứ tụ về từ miền trung xa xôi: Quảng Trị, Thừa
Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng… Họ đã rời xa làng quê yêu dấu. Dù nơi chôn nhau cắt
rốn, nhưng không thể dung thân. Tha phương cầu thực, rồi gặp nhau nơi vùng đất hứa: Ngã ba Dầu Giây (Xã Bàu Hàm 2, Thống Nhất, Đồng Nai)
Mùa mưa miền đông
Nam bộ, chỉ thấy đất ba-dan nâu đỏ nhão nhoẹt, vườn chôm chôm, sầu riêng xơ
xác.
Bên bìa rừng cao su, thấp thoáng những mái
nhà tre, lá. Ngã ba Dầu Giây – Giao lộ QL1A-QL20, từ đây ngược hướng bắc về miền
trung, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Quảng Trị, Quảng Bình… Hà Nội. Ngược lại, Hưng
Lộc, Trảng Bom, Hố Nai, Biên Hoà, Saigon, Bình Dương, miền Tây Nam Bộ... Ai về
Đà Lạt, Lâm Đồng, Tây nguyên theo QL.20.
Rừng cao su trơ cành, xếp hàng thẳng tắp,
mùa cao su lá rụng là mùa cảm sốt. Chưa hết mùa mưa nhưng cũng là mùa tựu trường,
học trò ông từ ấp Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu, Ngô Quyền, 97, Gia Nhan... Những
đứa trẻ ngơ ngác, chân không dép, theo đường mòn băng ngang rừng cao su. Những
chiếc xe đạp trơ khung, bùn đất đỏ bám đầy hai bánh xe lăn trượt. Các em nhịn
ăn sáng, buổi sáng chẳng có gì ăn. Cha mẹ đã ra lô cao su từ sớm.
Tuổi mười hai, mười ba thay cha mẹ. Đi chợ,
nấu ăn, ru em… đi học. Học trò ông không có khai sinh, không hộ khẩu. Gia tài cỏn
con đã tôi tuột, từ ngày di tản.
Tiếng còi lê thê của nông trường cao su Dầu
Giây, bật dậy những đôi vai còm cỏi. Mủ cao su theo vết cạo chầm chậm ứa, nhỏ từng
giọt âm thầm như những giọt nước mắt thời bỉ cực.
Những gia đình một thời đã sống nơi “Quê hương tôi nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu
áo hè thời thiếu ăn”, nhưng an bình, thắm đượm tình người. Chiến tranh đã
đi qua lại ngậm ngùi giã từ. Đến những nơi còn đầy bom mìn, lạ lẫm. Mưu sinh bằng
nghề làm rẫy, phu cao su…
……….
Cứ vào khoảng cuối thu, lá cao su chuyển từ xanh sang vàng, rồi màu đỏ trước khi rụng. Đẹp
và thơ mộng hơn rừng phong Bắc Âu.
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”
(Kiều-Nguyễn
Du).
Dọc hai bên đường, hoa đào hoang tím
nhạt, lung linh trong gió.
Ông bạn già
Khang dừng xe đạp:
-
Ông Lân hử! Chớ về hồi nào?
Nghe tiếng “về”
lòng ông ấm áp lạ thường, ông mỉm cười:
-
“Sinh ký tử quy” mà! Dù sống hay chết, biết nơi mình
sẽ về là ổn rồi. Vào đây đã…
Ông Khang
ngớ người không hiểu ông Lân nói gì, theo chân ông Lân vào quán bà Năm:
-
Lâu dữ nghen thầy! Có “cô” về không?
Làm nghề
giáo cũng vui, già khú đế vẫn còn được gọi “cô”. Ông Lân quay sang ông Khang:
-
Làm mấy “ve” hỉ?
-
Tui bỏ rượu bia rồi, lên “tăng-xông” suýt chết!
Không chờ ông Lân
có ý kiến, ông quay sang bà Năm:
-
Một ly bạc xỉu, một ly café đen nóng! Tui vẫn nhớ cái
“gu” của ông mà.
-
Nhớ cái hồi kèm theo điếu Samit, mới đó mà nghe
chừng xa lắc. Bà Năm góp lời.
Ông Khang khoe:
-
Tui cũng được địa phương phân cho hai cái đã xây
kim tỉnh đàng hoàng. Sống đồng sàn, chết không đồng quan cũng
đồng nghĩa địa. Tui nói với mấy đứa nhỏ đừng ma chay rình rang tốn kém, thiêu
xong bỏ chút tro cốt vô hủ gởi chùa hay rắc hết xuống sông, nhưng con tui hổng
chịu.
-
Nằm xuống rồi, mọi sự theo ý của người sống. Bà tui
nghĩ cũng phải, thời bây giờ kiếm được chỗ “nằm” tốn kém lắm, con cái đứa nào cũng
còn chật vật, thôi mình lo trước phần mình. Đôi khi tôi nghĩ, sống hay chết gì
con cháu có chỗ để về nghe cũng ấm áp ông ạ! Mình dân tha hương, con cháu trưởng
thành nơi đất khách quê người, đây là quê hương chớ ở đâu ông? Tui nhớ hình như
lời Lão Tử:
“Con người sinh ra trên đời
theo lẽ tự nhiên, chết cũng tự nhiên, sống trên đời thuận theo lẽ tự nhiên, có
như vậy bản tính mới không loạn, không thuận theo tự nhiên, bận bịu chìm đắm
trong nhân và nghĩa, bản tính lúc nào cũng bị gó bó, trói buộc, khó có thể
thảnh thơi.
Trong đầu lúc nào cũng cánh
cánh suy nghĩ về công danh, tâm vì thế mà bất an, mưu lợi trong tâm, chỉ rước
thêm phiền não”.
-
Nghĩa
trang xã mới “quy hoạch” giống như hoa viên,
chia
từng khu vuông vức, đường sá rộng rãi đẹp thiệt ông à. Nghe nói địa phương cũng
chiếu cố đến những thầy cô giáo cũ, một thời…
-
Vì
vậy mà tui về đây! Tụi tui thích “nằm” bên ông,
không
biết còn chỗ trống không?
-
Để
rồi xong giờ dạy rủ nhau nhậu hử? Tui nhớ chiều
Nào trước
sân nhà ông dưới tán bạch đàn, tụi mình chỉ cần mấy xị rượu với cốc, ổi mà nói chuyện
văn chương, thơ phú tràn cung mây, nhưng
thi tứ chưa thoát khỏi chữ ngậm ngùi…
-
Tui
nghĩ cũng lạ! Khi nhậu ông như thầy giáo, đứng
trên
bục giảng ông lại say. Tinh hoa của ông phát tiết cực độ và bi phẫn lẫn cuồng
nộ theo những thân phận bất hạnh, bần cùng. Cũng có đôi lần ông trích giảng
không có trong sách giáo khoa… Nhưng tui ủng hộ!
-
Chính
điều đó tui quý trọng ông. Có lần tui hỏi
ông:“Dạy
học trò cái gì?” – Ông trả lời: “Tình thương!”. Chỉ có vậy thôi mà sau bao
nhiêu năm, nhiều thế hệ học sinh của ông vẫn nhớ đến thầy…
Ông Lân nhìn ông Khang, rồi nhìn lại mình.
Dù đồng niên nhưng tóc ông đã bạc phơ, ông đã rời xa bục giảng trước ông Khang
khá lâu chuyển sang nghề khác cũng vì sinh kế, để các con ông có điều kiện học
hành… Cuộc đời ông thăng trầm như nốt
nhạc, nhưng những nốt nhạc buồn thánh thót như hạt mưa rơi của chiều đông lạnh
lẽo tha phương…
Chiếc xe hơi đen bóng loáng dừng trước
quán bà Năm, bốn khuôn mặt trung niên rạng rỡ chạy ùa vào như lũ trẻ, tay mắt
mặt mừng chào thầy rối rít, miệng hỏi liên hồi. Hai ông không biết trả lời câu
nào trước câu nào sau…
-
Nghe
nói thầy về tụi em đi tìm, may quá!
-
Bắt
cóc hử? Thầy vừa xuống xe đò, gặp thầy Khang...
-
Trưa
nay nhà Bảo giổ thầy Hân - ba bạn ấy, tụi em
kính
mời hai thầy lên xe.
Ông Lân thảng thốt, thầy Hân cũng là thầy
dạy những ngày ở trường sư phạm của ông, biết bao thế hệ giáo sinh mang theo
tấm lòng và ảnh hưởng lớn từ tính mô phạm của thầy tỏa về muôn hướng. Sau ngày
đất nước thống nhất có triệu triệu người đổi đời, thầy Hân lại ở trong triệu
triệu người mất việc đi làm cu-li hay dắt díu nhau về miền đất ba-zan ngút ngàn
cao su này làm rẫy, cạo mủ cao su…
Ngày thầy mất ông Lân không hề hay biết,
ông cảm thấy mình quá vô tình lại càng cảm thấy xấu hổ với mấy em học sinh của
ông. Ông thừ người trầm ngâm tưởng nhớ về người thầy khả kính năm nào, ngay tại
vùng đất này nhiều lần ông bỏ dỡ công việc như đang sửa hay vá xe đạp cho
khách, chạy ra đẩy chiếc xe thồ chất đầy lá chuối của thầy Hân lên con dốc
ngoài kia…
Cơn sóng dữ dội cuốn phăng những “tàn dư”
cũ vào dòng nước xoáy hung hản rồi vất tung hê vào rừng sâu. Sự đố kỵ và ngộ
nhận làm ngất ngư những tinh hoa dân tộc được đào tạo bài bản, đẩy thân phận họ
lên bờ xuống ruộng, lãng phí chất xám một cách ngô nghê. Tính tự hào của chiến
thắng đã tạo ra những thế hệ kế tiếp sống trong tự mãn và ảo mộng của thời bình,
đua nhau hưởng thụ. Vật chất hóa lý tưởng sống, khiến nhân sinh quan méo mó và
ngày càng hụt hẫng với những gì đã được nhồi nhét bằng mớ lý luận mơ hồ.
Sự phồn hoa không từ căn cơ thu nhập quốc
dân, chúng đồng lòng gặm nhấm tài nguyên đất nước đến cạn kiệt để tô vẽ bộ mặt
xã hội thêm hào nhoáng, lừa mị.
Ông Lân giật mình như tỉnh cơn mơ, nhà thầy Hân vẫn như xưa. Đôi mắt
thầy trong di ảnh hiền từ nhưng cương nghị, ông Lân cảm thấy hổ thẹn với lòng
mình. Trong cuộc sống bôn ba mưu sinh, hình như ông đã nhiều lần e ngại và
tránh né khi đối mặt với những bất công và đê tiện của lũ bợm người. Sự lừng
khừng thủ thế là thỏa hiệp tồi tệ nhất, không xứng đáng với tinh thần “kiến
ngãi bất vi vô dõng giả” của cụ Đồ Chiểu và một đời thanh lương, khẳng khái của
thầy Hân.
………
Ông Khang đi rồi, ông đi bất thình lình sau cơn đột quỵ. Ông Khang đã về
trước ông…
Những cơn mưa cuối mùa dữ dội, nước tràn vào huyệt mộ khoáy trộn màu đất
nâu đỏ xen lẫn những chiếc lá cao su úa vàng xoay tròn như bàn tay đang vẫy tạ
từ. Nước cũng rút đi thật nhanh, để lại lớp váng bùn lóng lánh như kim nhủ dưới
ánh mặt trời đứng bóng. Ông Lân đứng trên tấm đan phần mộ của mình, ông sẽ
“nằm” bên ông Khang, kế bên là của bà. Ông liếc nhìn vợ, khuôn mặt bà Lân không
tỏ cảm xúc gì sau cặp kính đen, nhưng ông biết lòng bà đang rộn lên niềm u hoài
khó tả. Đột nhiên ông muốn ôm bà vào lòng, vuốt mái tóc đã chớm bạc bay bay
theo cơn gió hiếm hoi của buổi trưa nồng. Lòng ông chợt nghĩ:
Bóng ngả về chiều, trời
sao mau tối
Ta bất an với đời ta
nông nổi
Lá quen cành bối rối lúc
lìa xa
Vắng con tàu ngơ ngác
một sân ga
Mới chợt nghĩ mà thương
em quá đỗi
Tóc ngả màu đông, da hằn vết rối
Nhưng trong ta em vẫn mãi ngu ngơ
Em vẫn là em của thuở ấy dại khờ
Nên nếu một mai...bỗng ta về với núi
Làm sao nâng niu khi ta là cát bụi!
Lá quen cành bối rối lúc lìa xa
Vắng con tàu ngơ ngác một sân ga...
(Bóng Ngả Về Chiều
– PNCU)
Lòng ông đầy mâu thuẩn, vừa muốn không thể mất bà lại vừa muốn bà đi
trước để ông có thể thực hiện những sở thích của bà như những gì bà ao ước lúc
sinh thời…
Khi đang còn hiện hữu, ông đã làm gì để bà vui? Trong tình chồng vợ, ông
đã bao lần đem lại muộn phiền, tủi thân trong tâm khảm của bà. Bà đã âm thầm
chịu đựng tính trăng hoa bay bướm của ông, tính nghệ sĩ nửa mùa như hạt sạn
trong chén cơm nồng hương lúa mới đã dìm chết một phần tình yêu thương bà vốn
chỉ để dành cho ông từ ngày mới lớn.
Ông Khang mất, ông như sực tỉnh cơn mê. Tuổi bảy mươi chỉ dành cho ông
từng năm một, có khi từng tháng không chừng, có khi không có một sớm mai!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét