Những giai thoại về cụ Trạng Trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm cứ ám ảnh anh mãi khôn nguôi. Có khi nào người đời sau muốn thần
thánh hóa cụ hay “sáng tác” để trải lòng mình vì thời thế nhiểu nhương gọi là “ôn cố tri tân”
hầu mong ngăn ngừa và giáo dục?
Nguyễn Văn Đạt sau khi bỏ qua 9 kỳ đại
khoa (6 khoa thời Lê sơ và 2 khoa đầu nhà Mạc). Năm 1534 thời Mạc Thái Tông ông
mới đi thi, đổi tên thành Nguyễn Bỉnh Khiêm, “Bỉnh Khiêm” nghĩa là giữ trọn tính khiêm nhường, ông đỗ trạng
nguyên nhà Mạc. Sau khi xảy ra mâu thuẩn giữa Trịnh Kiểm (con rể của Nguyễn
Kim) và Nguyễn Hoàng, ông đã khuyên Nguyễn Hoàng:“Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” và lịch sử đã chứng kiến
“Nam-Bắc phân tranh” giữa Trịnh-Nguyễn kéo dài gần 50 năm (1627-1775) cuối cùng
bị nhà Tây Sơn tiêu diệt.
Năm Minh Mạng thứ 14, Dinh điền sứ Nguyễn
Công Trứ được điều đi khẩn hoang ở Hải Dương, Nguyễn Công Trứ ra lệnh phá đền
thờ Trạng Trình để đào sông. Dưới lư hương thờ cụ Trạng có tấm bia đá phủ vải
điều khắc dòng chữ: “Minh Mạng thập tứ/
Thằng Trứ phá đền/ Phá đền thì phải làm đền/ Nào ai đụng đến doanh điền nhà
bay”. Hoảng kinh, Nguyễn Công Trứ không dám “quy hoạch” và cho sửa lại nơi
thờ phụng khang trang.
Bạng tên đầy đủ là Phan Thành Bạng, hồi
nhỏ lêu lổng biếng học ham chơi, trong một lần ra tắm sông gặp hai Mân giỏi
nghề câu tôm. Tướng hai Mân dị dạng nhưng được khoa ăn nói, chứng nghiệm bằng
hành động thực tế với những con tôm càng xanh như hạt ngọc long lanh dưới ánh
mặt trời, đưa hai càng búng tanh tách khi rời khỏi mặt nước, Bạng khoái tỉ xin
học bí kíp, bái hai Mân làm sư phụ. Từ đó Bạng tâm phục khẩu phục, tự nguyện
làm cảnh giới và bảo vệ an toàn cho hai Mân. Bạng ngạc nhiên khi thấy ông thầy
mình thiên biến vạn hóa, xuất quỷ nhập thần hành tung vô định như Dương Tiễn
với 72 phép thần thông biến hóa trong truyện Phong Thần.
Thời thế đổi chủ thay ngôi, hai Mân ra làm
quan to với Tây Sơn, sư phụ cất nhắc đệ
tử trung thành Phan Thành Bạng, đổi tên là Phạm Trung Hiếu và được hai Mân nhận
làm nghĩa tử để phù hợp với họ Phạm của hai Mân – Phạm Trung Mân.
Sự dốt nát và dựa dẫm quyền thế khiến Phạm
Trung Hiếu huênh hoang tự đắc, gây ra nhiều điều tệ hại, dã man với bá tánh.
Hắn ngang tàn hoang dâm vô đạo hơn Đặng Mậu Lân, em trai Đặng Tuyên Phi của
chúa Trịnh Sâm. Đặng Thị Huệ đã liên kết với Huy quận công Hoàng Đình Bảo
triệtTrịnh Khải giành ngôi cho con mình là Trịnh Cán (1777-1782}, gây nên nạn
kiêu binh làm sụp đổ chính quyền Lê-Trịnh.
Phạm Trung Hiếu cùng lũ tay chân ngưu đầu
mã diện bày ra kế sách bóc lột tàn tệ dân đen, đền đài miếu mạo càng tan hoang
hơn khi đoàn quân của Phạm Trung Hiếu “bình định” các thành trì được chiếm giữ
từ quân Nguyễn Ánh.
Lòng dân ta thán khôn nguôi, sự mất mát
điêu tàn vì giao tranh không bằng sự cướp bóc trắng trợn và ngang ngược của
Phạm Trung Hiếu và đám tham quan ô lại, hay tính bất nghì đã vận vào tên Phạm
Trung Hiếu đã được cha nuôi quyền thế đặt cho?
……….
“Từ năm 1795 nội bộ Tây Sơn xảy ra mâu
thuẫn,Tư khấu Võ Văn Dũng giết thái
sư Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở trong khi Quang Toản bất lực không làm gì
được.
Năm 1801, khi đại quân chúa Nguyễn rút về Gia Định, thành Bình Định
được giao cho Võ Tánh và Lễ bộ tham tri Ngô Tùng
Châu trấn giữ. Quân Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của Thái phó Trần
Quang Diệu và tướng Võ Văn Dũng đến bao vây. Trong thành binh sĩ
lâu ngày thiếu lương thực, có người khuyên Võ Tánh nên vượt vòng vây trốn
thoát, nhưng ông cương quyết ở lại "Không thể được. Ta phụng mạng
giữ thành này, nên thề với thành cùng sống chết. Nếu bỏ thành mà hèn nhát trốn
lấy một mình, thì sau này còn mặt mũi nào trông thấy chúa thượng?". Sau
đó ông cho người trao Trần Quang Diệu một bức thư, xin tha chết cho quân sĩ
trong thành. Ông sai thuộc hạ lấy rơm củi chất dưới lầu Bát Giác, đổ thuốc súng
vào, rồi châm ngòi tự vẫn. Tiếp theo, Ngô Tùng Châu cũng dùng thuốc độc tự vẫn.
Đó là ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu, tức vào ngày 7 tháng
7 năm 1801”.(*)
Trước cái chết anh dũng của Võ Tánh, người dân Bình Định đã
lưu truyền câu hát dưới đây:
Ngó lên ngọn tháp Cánh Tiên
Cảm thương quan Hậu thủ thiềng (thành) ba năm!
Vợ
Võ Tánh là công chúa Ngọc Du, khóc ông bằng bài thơ:
Những
tưởng ra tay giúp nước nhà
Ai
dè bình địa nổi phong ba.
Xót
người vị quốc liều thân ngọc,
Khiến
thiếp cô phòng ủ mặt hoa.
Gối
mộng mơ màng duyên nợ cũ,
Đài
mây xiêu lạc phách hồn xa.
Lửa
trung đốt đỏ gương hào kiệt,
Nóng
ruột thuyền quyên giọt lệ sa
Sau khi thành Bình Định thất thủ, Phạm
Trung Hiếu cho triệu tập những người trước đây hợp tác với chúa Nguyễn, ra sức
o ép dọa nạt, vu khống rồi tịch thu gia sản, kẻ bị giết hại thủ tiêu, kẻ bị đày
lên mạn ngược. Mặc dù Trần Quang Diệu tỏ ra xúc động trước sự trung dũng của Võ
Tánh và Ngô Tùng Châu đã không cho giết hại hàng binh.
Phạm Trung Hiếu nâng cằm Cẩm Tú - con quan
Đốc học – Chánh ngũ phẩm Trương Nho Bảo:
-
Nàng là cành vàng lá ngọc, ta không nỡ dập liễu vùi
hoa, nên thuận lời theo
ta về làm tì thiếp, ta tha…
Cẩm Tú quắc mắt, chỉ tay vào mặt hắn:
-
Lũ chúng bay đê tiện còn hơn thảo khấu. Cụ nội ta là
Trương Văn Hiến đã từng
khuyên chúa các ngươi:“Tây khởi nghĩa,
Bắc thu công”. Đại nghiệp chưa thành, lòng người chưa định, can qua máu ngập đầu rơi, dân tình
ly tán vậy mà các ngươi không động lòng còn tha hồ vơ vét đến tận xương tủy. Cơ
nghiệp nhà Tây Sơn chỉ một sớm một chiều, ta thà chết nơi này. Nói xong nàng
cắn lưỡi tự sát.
Phạm Trung Hiếu giận dữ sai quân mang thây
Cẩm Tú ném xuống giếng, từ lòng giếng một luồng khói trắng như mây bay vút lên trời,
quan quân Tây Sơn hoảng kinh trố mắt nhìn đất chung quanh giếng lún dần, những
tản đá ong vun lên thành gò…
Phạm Trung Hiếu cấu kết với Trương Nghị - tùy
tướng của Ngô Quang Diệu đem quân truy sát và bắt quan binh nhà Nguyễn đang sa
cơ thất thế làm lao dịch. Quan Đốc học Trương Nho Bảo uất hận vì sự tàn độc của
bè lũ man rợ Phạm – Trương và cái chết oan khốc của con gái mình, không kể hiểm
nguy quỳ trước lầu bát giác nay thành đống tro tàn khấn nguyền trước anh linh
hai vị anh hùng Võ, Ngô đã tuẩn tiết:
-
Trời sẽ không dung, đất sẽ không tha. Chúng bay
nhân danh những người
cùng khổ và lợi dụng cảnh nồi da xáo thịt Trịnh - Nguyễn đã tạm an bài, khuấy
động can qua gây ra bao cảnh đời lầm than cơ cực. Dung nạp thảo khấu, trọng
dụng kẻ cầm gươm bày trò lừa mị…
Chưa nói dứt lời, Trương Nghị đã xỉa gươm
vào cổ:
-
Ta cũng là môn sinh của ngươi, nhưng nay thế cờ đã
khác, tình sư đệ không
bằng đường công danh ta đang rộng mở, ta chém đầu ngươi cho ngọt gọi là trả nợ
ân sư.
Hắn vừa dứt lời, đầu Trương Nho Bảo đã lăn
lông lốc. Mái tóc chớm bạc của quan Đốc học xõa tung ra cuộn tròn quanh vầng
trán mênh mông, che khuất đôi mắt mở to căm uất. Hai hàm răng còn kịp há ra để
ngậm chặt vào bụi cỏ gú như ghìm lại bởi nhát gươm quá hung bạo của Trương
Nghị.
Không
những Trương Nghị là môn đồ của quan Đốc học mà còn là con cháu của dòng họ
Trương, hắn gọi Trương Nho Bảo là chú họ. Khi hay tin Trương Nghị chém chết
quan Đốc học, thân mẫu của hắn ngữa mặt kêu rú như người điên, quỳ lạy như tế
sao trước bàn thờ tiên tổ, nhận lỗi cho thằng con vô nghì rồi chạy ra bờ sông
nhảy xuống trầm mình.
Sau khi lục soát, Trương Nghị cho quân
phong tỏa dinh thự quan Đốc học. Lạ một điều, ngoài những cuốn sách Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn
thi, Sơ học vấn tân, Minh đạo gia huấn,Minh tâm bảo giám, các sách nghiên
cứu kinh, truyện (Tứ thư, Ngũ kinh) và đặc
biệt các sách khảo cứu về sử ký, địa lý
của Lê Quý Đôn như Toàn Việt Thi Lục, Đại Việt thông sử ,
Quốc triều tục biên, Bắc sứ thông lục, Phủ biên tạp lục, Kiến văn tiểu lục…và của các học giả
khác, gia sản quan Đốc học không có gì đáng giá, hắn tức giận sai quân đốt
sạch. Các miếu mạo, đền thờ, lăng tẩm bị phá tan hoang.
Cả bọn Phạm Trung Hiếu và Trương Nghị hung
hăng tàn bạo, “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Lũ quan quân dưới quyền
chúng tha hồ vơ vét, dân tình đói khổ một cổ hai tròng cam chịu cảnh màn trời
chiếu đất, tang thương.
Người dân vùng Thuận - Quảng trông ngóng mong chờ quân của chúa
Nguyễn từ Gia Định tiến ra tiêu diệt Tây Sơn: “Lạy trời cho cả gió nồm, Để
cho chúa Nguyễn kéo buồm thẳng ra”...
Triều Tây
Sơn kể từ vua Thái Đức Nguyễn Nhạc đến hết Cảnh Thịnh tồn
tại được 24 nǎm (1778-1802). Những lời sấm của cụ Trạng Trình đã linh ứng trước
hơn năm mươi năm, những người dân đã một thời dâng hết gia sản kể cả thân mình
cho Tây Sơn cảm thấy mình vừa thoát khỏi cơn mê, lòng uất hận như sóng triều
dâng. Bọn Phạm Trung Hiếu và Trương Nghị như rắn mất đầu run như cầy sấy, quỳ
gối hèn hạ van xin. Sau khi tài sản bị tịch thu sung công và bị xử lăng trì,
chúng không còn cơ hội để ăn năn và ngẫm lại lời người xưa để “ôn cố tri tân”,
tất cả là phù du và quá muộn màng.
“Vua Gia
Long đã thống nhất sơn hà, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài gần 300
năm. Trận đánh cuối cùng của vua Gia Long và tàn quân Tây Sơn là tại đảo
Giang Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc tháng 7/1802.
Quân chúa Nguyễn đã chém đầu Đại Tư Mã Trịnh Thất-Thủ lĩnh hải tặc Trung
Hoa trong hàng ngũ Tây Sơn và kết thúc hoàn toàn cuộc nội chiến đã kéo dài gần
30 năm”.(*)
“Quang
Trung ơi! vó ngựa người ngang dọc
Thất đởm kinh hồn quân xâm lược Càn Long
Ơn mưa móc nơi người là điêu tàn khốn
khổ
Áo vải và anh hùng sao bàn chuyện an
dân”
(*)Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét