LY HƯƠNG
Năm năm làm lính, trú
đóng nơi heo hút đồi mây, núi đá. Sống chết dễ như trò chơi sấp ngữa. Những
ngày phép thường niên ngắn ngủi, chỉ dành cho người tình, bạn bè bù khú…
Tuổi hai lăm cộng năm
năm tù đày, bây giờ gần được mẹ cha. Cha hom hem vì bệnh phổi kinh niên, mẹ còm
cỏi, con dâu và mẹ chồng chưa quen nghề ruộng đồng, nuôi heo, thả vịt. Kính cận
thị của vợ bị vỡ mất một tròng, đi đứng loạng choạng như người mộng du, rối
loạn tiền đình.
Dù gì quê hương mình
vẫn là máu thịt. Đui què mẻ sứt vẫn cố quay về.
Thành ngước nhìn ngôi
nhà ngói cũ bị đạn bom, chỉ còn ba mặt tường nham nhở. Những tấm tole được
chằng buộc bởi những cây tre già, thân mốc meo buồn thảm.
Ngày vợ Thành sinh con
thứ ba, cũng là ngày mẹ anh qua đời đột ngột vì tai biến, vỡ động mạch não. Mẹ
vừa qua tuổi năm mươi.
Tấm thân bệnh hoạn của
cha anh suy sụp hẳn. Nỗi đớn đau mất người thân yêu nhất, xé nát tâm hồn anh.
Đêm trời trở gió, anh lang thang trên cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ. Hình ảnh mẹ
tiều tuỵ vì thiếu ăn, lom khom trên ruộng lúa ngày nào, bừng lên niềm hân hoan
khi anh được tha về bất chợt.
Thành tập tành làm y tá
thay mẹ, chích thuốc cho cha. Mũi tiêm đâm vào mông khô héo chỉ còn da. Tay anh
run run, tựa hồ như ai bóp nghẹn tim mình. Cha quay nhìn anh, đôi mắt buồn hiu
kèm theo tràng ho dữ dội.
Thành vẫn không yên với
cảnh đời đã quá ư nghèo khó. Sự đố kỵ và lằn ranh vô hình đen đỏ tách biệt gia
đình anh với những người trong làng, kể cả người thân, khiến người cha cô đơn
và cả bản thân anh trở thành cô độc.
Xa xa về hướng Tây Nam,
dãy Ngọc Linh mờ mịt. Thành
nhớ những đêm hè, ánh lửa bập bùng xa tít
trên lưng chừng núi, khói quyện vào trong mây. Không nghe tiếng đạn nổ
bom rơi, vừng sáng hoả châu như ánh trăng huyền ảo pha sắc máu trong đêm, khiến
làng quê anh chao đảo, không thể yên bình.
Thành ôm con chó của cha, đôi mắt nó nhìn
anh không chớp, đuôi ngoe nguẩy cầu thân. Sự cùng quẩn khiến anh chợt có ý định
man rợ. Đứa con gái lên ba, ghẻ lở đầy mình khóc ri rỉ như mèo hoang trong đêm
khuya vắng. Không có gì để đãi quan viên, từ ngày anh vác chiếc ba-lô con cóc
rách nát về quê.
Con chó ngoan ngoãn theo anh. Mương thuỷ
lợi lững lờ, dòng nước trong veo soi bóng anh mờ ảo. Không một tiếng kêu, chỉ
nghe ặc ặc đuối nước của con vật thân yêu, lịm dần mềm nhủn trong bàn tay anh.
Rừng phi lao xanh tươi, hồ
nước phẳng lặng trong lành. Từ trên đỉnh đồi nhìn về hướng Nam, phong cảnh quê
hương anh như dải lụa xanh trải dài trong nắng. Thành nghe đâu đó, một con mối
chúa có hàm lượng dinh dưỡng bằng ký thịt bò, tăng cường sinh lý, bổ thận. Anh
đào, anh phá tan hoang gò mối. Đất tổ mối chai cứng khiến anh vã mồ hôi,
chân tay bủn rủn vì đói. Những con mối lính đưa hai càng nâu đen, găm vào da
thịt anh căm phẩn. Thành xới đào từng hang hốc nhỏ bé truy lùng. Đòn gánh
trên vai anh nặng trĩu, những củ khoai mì da mốc thếch cứu đói, nhân sâm của
gia đình anh.
Thằng Cu đen cùng thời tiểu học – bây giờ
là ông Y, cán bộ xã, gởi giấy mời, hắn còn lạ gì lý lịch ba đời nhà anh. Ông
nội anh: Thầy dạy chữ nho cho ông nội hắn và cả cha hắn.
Hắn làm như không hề quen biết. Sự đối
kháng hằn trong ý nghĩ
và mặc cảm thân phận, khiến
mắt hắn đỏ rực những tia máu. Hắn đẩy tờ giấy, hất hàm:
- Ký vào, đi gỡ bom mìn! Tụi mầy gieo thì
tụi mầy dọn
Tiếng nổ gần đâu đó, tiếng kêu rên của các
bạn đồng cảnh ngộ khiến lòng anh đau đớn. Anh xé miếng vải áo buộc vội ngăn
dòng máu oan nghiệt, di hại của thời chiến tranh tàn khốc vẫn còn chảy mãi trên
phận người khốn khổ và quê hương nghèo khó của anh.
…..
Mụ Bình – hội phụ nữ xã khuyến khích phá thai. Thời nay chuyện phá
bỏ dễ ợt, nhau thai ngâm rượu bồi bổ sức khoẻ, chữa được bách bệnh. Anh Đồng quay mặt ghê tởm những lời phát ra
từ miệng mụ. Anh quát đuổi mụ ra khỏi
nhà, mụ cầm nón đi te te, còn ngoái lại
phun miếng bả trầu đỏ lòm như máu.
Những linh hồn thai nhi lượn lờ như những cánh hoa bay vật vờ trong gió, vô diện, vô danh.
Mụ Bình gọi những hủ rượu ngâm nhau thai (đông
y gọi tử hà xa) là mỹ tửu. Mụ chỉ dành biếu tặng cho quan chức trong làng, xã. Gò Găng
phía sau nhà mụ, những chiếc hủ sành cỏn con nằm lăn lóc. Xác những thai nhi bị
đào bới bởi những con chuột rụng hết lông.
Vợ
anh Đồng đã đặt vòng tránh thai nhưng
lại có thai. Thai ngoài tử cung, suýt chết. Từ đó vợ anh thay đổi tính tình,
mất thiên chức làm vợ. Trước đây dịu dàng, nhu mì bao nhiêu nay càng mạnh mẽ,
đàn ông tính bấy nhiêu.
Anh
chia sẻ với Thành từng củ khoai, củ sắn. Đám con liu chiu lít chít, gầy tong
teo và đen nhẻm như đám trẻ Somali. Ba đứa con của Thành chẳng khác gì
hơn.
Anh
tốt nghiệp phó đốc sự, quốc gia hành chánh. Nghề giáo như Thành còn mất dần chữ
nghĩa, huống gì anh.
Anh
mưu sinh bằng nghề đan giỏ. Đôi tay như có mắt, thoăn thoắt điệu nghệ. Những
chiếc lạt tre múa vặn mình thành những hình lục giác đều đặn, đẹp mắt. Anh Đồng
là anh vợ Thành.
Anh bàn: “Quê mình không sống nổi
đâu, em thu xếp đưa vợ con vào trong Nam. Miền đông Nam bộ dễ sống, nhân tâm
rộng lượng, hơn nữa đa số bà con hoàn cảnh giống tụi mình đã vào trong đó, họ
dễ cảm thông và sẳn sàng giúp đở…”.
Thôi
đành giã từ bản làng, quê quán. Hai gia đình xếp gọn hành trang, cất bước ly
hương.
…….
Những ngày giáp tết, mưa rả rích thật lạ. Mùa cao su rụng lá cũng bắt
đầu mùa khô ở miền Đông Nam bộ. Hàng cao su thẳng tắp, lá vàng nâu reo trong
gió, đẹp như rừng phong Bắc Âu.
Năm
nay thời tiết đỏng đảnh, có lẽ đã gần hết mùa mưa.
Hoa
đào hoang màu hồng phớt, phả vào lòng người tha hương nỗi niềm cô quạnh. Bàn
thờ tổ tiên không thể ấm lên, khi lòng người ly tán. Tiếng chuông chùa Diệu
Pháp ngân vang trong đêm giao thừa lạnh lẽo, càng nghe quạnh hiu xa vắng.
Thành nhìn sang nhà anh. Căn nhà bên bìa rừng cao su reo khẽ tiếng lá
buông xác xơ trên vách. Ánh đèn tù mù như đom đóm lập loè trong đêm, điểm xuyết
những chấm lửa lẻ loi của tàn hương.
Đã
từng đón năm mới trên đèo heo hút gió, trong rừng lau lách nghe tiếng đạn reo,
nhưng Thành không có cảm giác cô đơn như đêm nay.
Anh Đồng không tin
thượng đế, trời Phật cũng không. Vậy mà anh muốn đi tu hay anh muốn giải thoát
cho chính vợ con mình? Anh nghêu ngao, ngâm nga thơ phú tràn cung mây. Nghêu
ngao cho quên đời hay ngâm nga để ngậm ngùi?
Thành gom hai gia đình
làm một. Anh Đồng chắc lưỡi:
-
Một ông, hai bà bảy đứa nhóc!
Chị Dung – vợ anh, tốt nghiệp trường sư phạm
Qui Nhơn. Niên khoá đầu tiên, chị được phân công về dạy ở trường tiểu học Phước
Sơn, dưới chân núi Ngọc Linh. Ngày giã từ quê hương, chị mang theo cả nỗi niềm
và tình yêu của những đứa học trò bé bỏng ở miền quê nghèo Phước Sơn, Duy
Xuyên, Đại Lộc.
Hằng ngày chị đi chặt lá buông về đan
hàng thủ công mỹ nghệ, chiếc áo bộ đội cũ dài quá
khổ, bê bết mủ cây rừng xám đen, tạo thành bức tranh đời buồn thảm.
Cộng buông như tàu dừa, nhưng có hàng răng
cưa nhọn bén. Chị vót những đôi đũa trắng tinh, có đường vân rất đẹp. Lá buông
dùng lợp nhà, dừng vách và buộc bằng sợi lạt sóng lá, để che gió mưa. Lá buông
non được chằm thành tấm hoặc rọc thành nan để đan túi ví, làm nón, bện thành
dây…
Cũng từ bắp lá non
tơ, đã xa lắm rồi, những cánh buồm đan lá căng gió lướt sóng biển khơi, trở
thành hình ảnh phiêu bạt và thơ mộng của một thời.
Tiếng trẻ thơ cười nói, nghịch ngợm, nô
đùa. Tiếng ê a ngọng nghịu của đám học trò nhỏ thành dư âm trong lòng chị, vang
vọng mãi…Trong giấc ngủ mệt nhoài, chị nghe văng vẳng tiếng trống vào lớp, chị
giật mình bật dậy…
Trời đã tối dần, đường về còn xa. Tiếng vượn
hú não nuột từ rừng sâu, cơn mưa bất chợt khuấy động bầy vắt, bung ra bám đầy
tay chân, mặt mũi của những người đi rừng như chị, vừa gánh vừa kéo lê bó lá
dài quét đất. Mớ dây leo ngớ ngẩn buông lơi, vướng víu như trêu ghẹo những người
tha phương cầu thực. Mồ hôi chị chảy dài pha
trộn mưa rừng, không làm chị bớt cay mắt.
………..
Không ai hiểu tâm trạng của anh Đồng. Anh ngán ngẩm thế nhân, lên rừng.
Đời gì thế? Nhìn đâu cũng thấy nghi kỵ, thủ thế.
Rừng miền đông Nam bộ bạt ngàn. Những giọt dầu tươm tinh tuý, thân cây
dầu thẳng đụt. Càng thẳng càng dễ bị hạ. Những cánh “muồng hoa đào” nở rộ, anh
phát rừng làm rẫy. Chỉ có anh với những đàn chim, sóc, heo rừng…
Thanh âm của chúng, anh thấy vui. Anh sợ tiếng người, ghê sợ giọng cười giả
lả. Những ánh mắt như có sắc nhọn của mũi tên, của gươm… Anh tự nhận mình là
con chim cun cút. Anh sợ lưới.
Tiếng mưa rừng tí tách, lộp độp buồn hiu. Nhưng lòng anh thảnh thơi kỳ
lạ. Đàn chim bay về trú ngụ bên anh, cánh ướt tả tơi, đang rỉa lông cho nhau.
Anh lại nghĩ về loài người, đang nhổ lông nhau.
Ánh nắng hiếm hoi xuyên qua tàn lá. Đàn heo rừng chạy ngang căn lều,
tiếng khịt khịt và giọng hót lảnh lót của con chim lạ, khiến tâm hồn anh bùi
ngùi thương cảm vô cớ.
Nhìn con sóc chít chít trên xà nhà, anh ôm lá khô vun tròn thành tổ ấm.
Bếp lửa khói um ngột ngạt, khiến bầy chim bay vụt ra ngoài. Anh hối hận, nơi
nào có bàn tay con người, cũng gây tệ hại.
Bếp lửa bừng sáng, gió dìu dịu làm lá cọ khô trên vách, run lên khe khẻ.
Tiếng còi tàu sắp đến ga Trảng Táo vang vọng ngân dài, gợi nhớ miền đô hội xa xôi. Đường
tàu như mũi tên xuyên qua cánh rừng, rồi mất hút về hướng Gia Huynh, Suối Kiết.
Anh Đồng nói đúng. Quê nhà mình, đến gò mả
cũng đào xới để trồng khoai mì, rau đậu. Bờ tre lụi tàn vì đào hết gốc, tấc đất
tấc vàng… nhưng xác xơ vẫn hoàn xơ xác.
Nhưng nơi này, vùng đất ba-dan đỏ au màu mỡ.
Rẫy ngô xanh ngát, hoa màu tốt tươi, trù phú bạt ngàn ven lô cao su. Đất cũng rộng
lượng và bao dung như tấm lòng người dân Nam bộ.
Anh Đồng giao hết cơ ngơi cho Thành. Thành trở thành anh giáo làng bất đắc dĩ, hai gia đình bảy đứa học trò đủ loại, nhưng chẳng đứa nào có khai sinh.
Hơn nửa tháng rồi, anh Đồng không về. Khi
Thành đạp xe băng rừng đến nơi, anh đã chết. Xác anh nằm cong queo trên võng,
khô đét. Rừng mùa khô, trảng tranh cháy nham nhở, chiếc lá to bản của cây dầu
truớc hiên, khô cong bay vòng vèo đậu xuống ngực anh, như an ủi và tống tiễn một
linh hồn ra đi trong cô quạnh.
Thành nghẹn ngào nhớ lời anh:”Một ông, hai bà bảy đứa nhóc!”.
Chị Dung thành lập tổ “thủ công mỹ nghệ”. Tận dụng lao động tối đa. Thành liên hệ nhận hợp
đồng từ HTX mây tre lá Ba Nhất. Ngày đầu khởi nghiệp Ba Nhất cũng:“Không nghề, không vốn, không
kinh nghiệm làm ăn”.
Chị Dung phân công
cho mấy đứa lớn lên Bình Dương học nghề đan lát. Từ ngày mấy đứa nhỏ
được nhận vào trường, Thành rảnh tay hơn, anh khai thác nguyên liệu dồi dào từ
rừng. Những chuyến xe đầy ắp mây, tre, lá đã thành chất đốt vì mốc meo và không
có điều kiện bảo quản. Kinh nghiệm đổi bằng máu, mồ hôi lẫn nước mắt.
…..
Bảy nhóc ngày nào, đã có bốn đứa đi du học
các nước Tây Âu. Đứa lớn nâng dần đứa nhỏ tiếp bước trên con đường tìm đến với
tri thức. Sự gắn kết của những chiếc lá buông, song mây, tre nứa bình thường trở
thành hàng thủ công mỹ nghệ.
Chúng sẽ làm gì cho đẹp lòng quê hương hay
mang nỗi buồn viễn xứ của người tha phương ngay trên đất nước mình và trên cõi
đời này?
DẤU ẤN TRONG ĐỜI
Thần
giao cách cảm chi phối nhịp tim. Khi giao hoà, hai bước sóng song đôi, cùng hân
hoan, thăng hoa trong nhịp thở. Nhưng hôm nay… Hay anh đã chết?
Trời
Qui Nhơn mùa đông thật buồn, gió bấc lạnh mang hơi biển, tê tái lòng người. Từ
căn gác trọ đường Hàn Thuyên, nhìn áo em tung bay trong mưa phùn lạnh lẽo. Trường
nữ Trinh Vương không xa, nép mình sau tượng Đức Mẹ, đôi mắt thánh thiện, hiền dịu.
Nhưng về đêm, anh không còn nhận ra em, cô bé nhí nhảnh trong jupe
soiree trắng, hồn nhiên và nghịch ngợm bên anh. Cà phê Dung, chìm lắng trong điệu
nhạc mơ hồ, vàng tay khói thuốc.
Ngày
em thi đỗ trường sư phạm, cũng là ngày anh bị động viên vào quân đội. Những nụ
hôn vụng về, vòng tay cuống quýt, hẹn ngày tốt nghiệp sẽ thành đôi lứa.
Những
ngày sắp xa nhau, anh đưa em đi đến những nơi nào có thể, mộ Hàn Mặc Tử chênh
vênh, Ghềnh Ráng mù sương, đầm Thị Nại mơ màng dưới chân núi Phương Mai lộng
gió, đảo Hải Minh trải dài chắn sóng cho thành phố cảng, Hòn Khô, cù lao Xanh lẽ
loi mờ mịt ngoài khơi xa…
Em,
tiểu thư dòng dõi trâm anh thế phiệt, con cháu nhà Tây Sơn một thời lừng lẫy.
Dù sa cơ mấy đời dưới triều Nguyễn, nhưng dần hưng thịnh, khi ba em về nhận chức
thị trưởng thành phố Qui Nhơn.
Ông
nội anh, nhà nho khoa bảng, ông Cử của khoa thi cuối cùng, ông thầy đồ khiêm
cung thất thế, không tán đồng mối lương duyên của anh và em. Do mặc cảm và tính
khí khái hay bất đắc chí của của nhà nho trong thời mạt vận?
Em
đã trao thân, mong sự lỡ làng để thành đôi. Nhưng những ngày không có anh, em
đã buông thả với những đêm phòng trà thác loạn men rượu cay nồng, bạch phiến trộn
lẫn khói thuốc Kool, đưa em về miền ảo giác.
Em
trở nên hụt hẫng với tất cả. “Make love,
not war”. Thân phận lạc loài của con giun con dế, thời chiến tranh dữ dội,
em dấn thân theo phong trào Hippie. Em không còn là mình, cô giáo sinh sư phạm
ngoan hiền ngày nào.
Ngày
anh trở lại em đã có thai, đứa bé ra đời trong nghiệt ngã. Em đã sa chân, lương
tâm em gào thét, em không thể trao trách nhiệm về anh. Riêng anh, anh không tin
đó là con mình, anh từ chối trong đau xót.
Sự
ăn năn và thất vọng đã đưa em đi xa hơn, càng ngập ngụa trong vũng lầy nhân thế
em càng đánh mất nhân phẩm của mình. Ngày ra trường em chọn nhiệm sở tại Phú Bổn,
dù gia thế của em dư sức can thiệp để em ở lại Qui Nhơn.
Trường
của em heo hút, thượng nguồn sông Ba. Với sắc đẹp như bông hoa rừng, bên cạnh
tính cách dạn dĩ, ngổ ngáo của con gái thị thành, em đã làm say đắm bao con tim
quan chức miền sơn cước.
Những
chiếc xe jeep nhiều sắc phục, đón đưa cô giáo trẻ cuối tuần về tỉnh lỵ Cheo
Reo.
Thầy
hiệu trưởng trẻ say đắm cô giáo mới về trường mình, lời cầu hôn chân thành và
bao dung đón nhận đứa bé không cha. Em sực tỉnh khi thân xác đã rã rời, tan
tành như quả đạn pháo đêm đêm rót vào thị xã.
Rừng
già bạt ngàn, tiếng chim Chơ-rao vang vọng lảnh lót, núi đồi nhấp nhô chìm
trong sương mù. Tiếng cồng chiêng quyện cùng tiếng hát theo gió bay xa, tưởng
chừng như chiến tranh không hề xảy ra trên mảnh đất này.
Trên
bước đường hành quân ngang buôn làng Jarai heo hút, anh gặp lại em. Cô giáo
ngày nào đã bị đồng hoá trong trang phục váy áo dệt bằng thổ cẩm, đường
viền hoa văn đẹp mắt chạy vòng quanh, những tua chỉ có đính hạt cây Tơr-peng.
Em đẹp rực rỡ như hoa lan trắng muốt, nổi bật giữa vòng vây học trò Bahna –
Jarai, hồn nhiên và đen nhẻm bởi nắng gió cao nguyên.
Ngày
tan hàng trong bi thảm. Anh đưa gia đình em theo đoàn quân rệu rã xuôi tỉnh
lộ 7, vượt qua đèo Tuna, cầu Phú Túc - Củng Sơn, định về lại Qui Nhơn.
Trong đêm đen hổn loạn, anh đã lạc mất mẹ con em…
Sau
bao thăng trầm trong cuộc sống. Anh theo vận nước nổi trôi, lưu lạc về vùng đất
hiền hoà Thủ Dầu Một, Bình Dương:
Thân phận ngụ cư ngay trên đất nước mình.
Đời chỉ dành cho anh những nghề lam lủ, anh miệt mài như con gõ kiến, mang đôi
cánh sặc sỡ, bay đi tìm hang hốc sâu mọt mưu sinh.
Hai mươi năm sau, bằng sự cần cù và kiến
thức kỷ thuật sẳn có, anh đường hoàng bước lên ngôi vị danh gia. Công ty xây
dựng H.H. vang danh trong ngành, không những ở tỉnh Bình Dương mà còn ngược về Qui Nhơn, Bình Định quê anh.
Anh
tìm lại những ngày tháng cũ, anh đi tìm em trong niềm hy vọng mong manh. Thành
phố Qui Nhơn đã không còn của anh và em, anh như người khách lạ lãng du cuối
bãi đầu ghềnh, biển không còn màu xanh biêng biếc một thời cưỡi sóng vô tư. Sân
bay cũ đã hoang phế, đìu hiu.
Anh tìm về căn nhà cũ, ba mẹ em đã mất,
những người hàng xóm tốt bụng đã không còn. Anh như Từ Thức trong “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ…
Duyên hư vô nên không là nợ. Anh nhìn về trường Sư
phạm Quy Nhơn, cồn cát
nằm dọc theo bờ biển với các loại cây rừng gai góc hoang dã, nay đã đổi tên thành Trường
Đại học Quy Nhơn bề thế, lạ lẫm.
Anh nhớ ngày xưa, từ bến xe Qui Nhơn băng
qua đường Gia Long, theo đại lộ Võ Tánh, đi về phía biển, qua khúc quanh Eo Nín
Thở, bên trái là bãi Thùy Dương, bên phải là Trường Trung Học Vi Nhân, Trường Sư Phạm Qui Nhơn, kế đến
là Trường Trung Học Kỹ Thuật. Nhìn lên chân đồi là mộ Hàn Mặc Tử.
Chiều xuống dần, nhanh và đen thẩm, ánh
đèn vàng vọt lung linh trên sóng nuớc chạy dài về bên kia Hải Minh. Tượng Đức
Trần Hưng Đạo uy nghi nhưng lạnh lùng, chỉ tay về trung tâm thành phố.
Anh thả hồn mình lang thang trong vô thức,
cổng tam quan chùa Tâm Ấn cổ kính, hàng cây im lìm trong nắng sớm, tiếng chuông
ngân nga như rũ sạch bụi trần ai. Trên chánh điện, đức Chí tôn từ bi nhìn anh
độ lượng.
Chùa Tâm Ấn rộng lớn nguy nga đã trở thành Đại
tùng lâm, tiêu biểu cho Ni tự thuộc hệ Thiền tông tại Qui Nhơn.
Ni sư Tuệ Mẫn không ngạc nhiên khi thấy
người khách lạ, gọi Ni cô Huyền Trân pha trà đãi khách. Từng giọt mưa rơi tí
tách trên mái hiên chùa, đôi mắt Ni cô Huyền Trân mênh mông như màu trời thu
dưới đáy hồ trong vắt, gợi nhớ trong anh hình ảnh thân thương của những ngày
xưa cũ.
Anh tò mò xin Ni sư Tuệ Mẫn kể về thân thế
Huyền Trân, anh giật mình khi nghe địa danh Diêu Trì, Tuy Phước... Duyên lành
cho anh gặp lại cô bé không cha ngày nào, anh đã một lần phủ nhận.
Ni cô Huyền Trân đưa anh về Tuy Phước,
theo QL.19 nối liền Bình Định – Tây Nguyên. Căn nhà đơn sơ nép dưới vườn cây,
lá cành nhuốm đỏ bụi đường. Em hiện ra, dung nhan tiều tụy, đôi mắt ngơ ngác u
uẩn nhìn anh như trong mơ. Nét thanh tân của cô giáo xinh đẹp một thời, không
còn một chút gì hiện hữu nơi em.
Người chồng hiệu trưởng trẻ trung, một
thời si mê rồi cũng bỏ rơi mẹ con em. Anh ấy đã chạy theo danh vọng, khi người
cha tập kết trở về. Nhà cha mẹ em đã bị trưng dụng. Mẹ con em lang bạt lên
Daklak, Gia Lai rồi về lại chốn này.
Anh ngồi lặng thinh nghe em kể, lòng ngậm
ngùi tê điếng. Có lẽ nào anh và em, như cánh bèo trôi theo con nước lớn ròng,
theo thời thế đảo điên, hưng phế của cuộc đời?
Ngày gặp lại nhau, em đã mắc bệnh nan y.
Anh đưa em vào Saigon chữa trị. Ni cô Huyền Trân chắp tay, ngước nhìn vào cõi
hư vô thăm thẳm: “Duyên tự sinh, ắt duyên tự diệt”.
Chưa đầy một mùa trăng, kể từ ngày gặp
lại, em đã rời xa nhân thế. Chỉ còn để lại trong anh, dấu ấn đầu đời rạn vỡ
khôn nguôi.
ĐỘNG DỤC
Tư
dưng mưa dông sấm sét, tiếng đì đùng nghe rợn tai, trời này ai dám ra khỏi nhà.
Hai Khôi định đi thiến mấy con chó, từ khi vợ hắn bỏ nhà theo trai, hắn đâm hận
những tay trẻ trung, sung sức. Bất kỳ ai, thằng nào nhìn tướng ngon cơm là hắn
muốn thiến, chung qui cũng do “lực bất
tòng tâm” mà ra.
Từ
ngày bị chứng bệnh mắc dịch, thầy bà đủ trò nhưng hai Khôi dùng không thấy hiệu
quả. Bạn hữu thương, nghe có phương thuốc nào hay đều hướng dẫn hắn tận tình,
nhưng cơ địa mỗi người mỗi khác. Sinh, tâm lý học giúp Tây y chẩn đoán bệnh
chính xác, nhưng tiếc thay những căn bệnh thuộc về cơ địa con người, Tây y chưa
có thuốc chữa đặc hiệu, những bệnh thuộc cơ địa rất khó cứu chữa vì mang yếu tố
di truyền. Chỉ có hai Khôi mới biết lắng nghe và hiểu rõ ràng nhất từng nhịp
đập của con tim đến tiếng thở dài của của các nơ-ron thần kinh trong hắn.
Ai
chịu thấu nỗi cô đơn, tiếng kêu gào của loài mèo động dục, bi thiết quá. Hắn có
là thần thánh cũng không thể hiểu. Vậy là vợ hắn đổi tánh, cáu ghét đến phát
điên. Chịu đời không thấu, bỏ nghề mộc mấy đời chuyển sang nghề thiến. Đặc biệt hắn chỉ thiến chó, heo,
gà… đực.
Nghề mộc gia truyền làng Kim Bồng của hai Khôi nổi tiếng đã được Lê Quý
Đôn đề cập trong “Phủ biên tạp lục”
từ thế kỷ 18, nhìn qua bên kia sông là phố cổ Hội An. Nhưng từ khi vào Saigon, nghề
mộc thủ công tinh xảo chết dần vì công nghiệp hoá.
Làm
ăn thất bát, hai Khôi chuyển đủ nghề nhưng không nghề nào trụ được dài lâu.
Niềm đam mê của hắn là sáng tạo, thông qua bàn tay tài hoa, từ cái cưa, bào,
chàng, đục lớn bé, đã tạo ra những sản phẩm vua chúa nhà Nguyễn còn mê. Vậy mà
nay hắn chuyển đam mê sang nghề hoạn!
Không lẽ hắn bức bối căm hờn vì chuyện mình kém cạnh hơn người ta trong
khoản tình dục? Thường thì sự đố kỵ, ganh ghét cũng do mình không bằng anh bằng
chị, nhưng nếu hắn biết chuyển nghề sang viết văn, làm thơ thì cái đám vai u
thịt bắp và bộ óc bằng hạt tiêu kia thán phục hắn biết chừng nào, có khi vợ hắn
không chạy theo thằng xe ba gác.
Nói
đến thằng này là ứa máu, thương tình đồng hương hắn cho ở nhờ, mua xe ba gác
cho nó chạy kiếm cơm đồng thời đi giao hàng mộc. Chị chị em em thế nào mà nó
chôm luôn vợ hai Khôi.
Hai
Khôi thở dài, có loại phụ nữ nhìn qua là kính nể, ngưỡng mộ không dám bông lơn,
hó hé. Nhưng cũng có người chỉ nhìn thoáng qua là muốn ôm, muốn nựng, muốn bế
lên giường. Mùa động dục đến cây cỏ, động vật còn toả mùi hương mời gọi, huống
chi vợ hắn?
Vợ
chồng hai Khôi không con. Ban đầu chị Dung đi chợ, nấu cơm tháng cho thợ, hắn
suốt ngày đầu tắt mặt tối. Nhưng đêm về, sau khi lai rai chút đỉnh với bạn, tắm
rửa xong đã thấy vợ nằm chờ, phải nói da thịt chị Dung trắng bóc, đôi mắt lúng
liếng, làn môi hé mở, hắn nổi da gà, sinh lực cuồn cuộn trào dâng. Cưng vợ,
không cho làm gì. nên chị Dung cứ phây phây.
Ban
đầu tình cờ chị Dung nhìn qua khe ván từ phòng ngủ, đám thợ mộc trẻ trung cởi
trần bào bào đục đục hùng hục, mồ hôi tươm ra trên ngực, trên vai rám nắng đầy
sinh lực của những cơ thể tràn nhựa sống, bỗng chị thấy rần rật cả người, má
chị đỏ rựng lên nóng bỏng, chị cởi tung cúc áo, cứ vậy mà tưởng tượng trong ú ớ
ngất ngây… Chị nhìn vào gương, phản chiếu đôi mắt si dại của mình, chị đâm ra
luống cuống, e thẹn.
Càng về sau, hai Khôi biếng nhác dần chăn gối. Chị Dung cứ chờ lúc xong
việc nhà, chị vào nhà tắm đưa nhẹ vòi sen bắn những tia nước mát dịu lên cổ,
lên mặt, lên ngực… Những lúc như thế này, từ trong sâu thẳm tâm hồn, chị cảm
thấy có lỗi với chồng thật nhiều, những lần ân ái với hai Khôi chị lại mơ màng
“đồng sàng dị mộng” cùng ai đó.
Ngày nay thiếu gì cách triệt sản, nhưng Hai Khôi vẫn thích kiểu truyền
thống, hắn treo hai chân con chó lên cột, cặp dái non đỏ hồng như khiêu khích,
hắn nghiến răng rạch theo khe giữa hai tinh hoàn, hai ngón tay nặn từ từ nhô ra
hòn bi nhỏ xíu, trắng chạch. Hắn nhìn chằm chằm vào đó, dùng mũi dao bén ngọt
tách nhẹ tinh hoàn trong niềm cảm khoái lạ lùng, trong khi con vật gầm gừ, rồi
tru lên trong tuyệt vọng.
Lần
nào cũng vậy, hắn dùng dây thép xuyên qua hai hòn dái mang về phơi khô. Xâu
chuỗi ngày càng dài thêm, nhưng không có cái nào giống cái nào, có cái tóp teo
như hạt nho khô, hạt mít non gặp nắng gắt.
Có
ai đó khuyên hắn ngâm rượu, uống vào sẽ cải thiện sinh lý. Mẫy lão xồn xồn đi
nhậu không khoái dái dê, ngầu pín là gì? Ngầu pín là dương vật và tinh hoàn của
trâu, bò, chó, dê, hải cẩu, hươu, hổ… Theo y học cổ truyền, dương vật và tinh
hoàn của động vật thuộc về tạng “thận” có chức năng cường dương, sinh tuỷ, sinh
xương…
Hai
Khôi không thèm, hắn chỉ muốn treo lủng lẳng trong phòng khách như một lời cảnh
tỉnh, doạ dẫm, một sự trả thù hay một lời nhắn gởi đến con chim mái đã theo
người tình bay xa?
Cha mẹ sinh ra tôi,
nhưng các bậc sinh thành có khi không hiểu hết tâm tính con gái mình. Tôi ra
đời ở thị trấn nhỏ. Mẹ nói quê tôi thật thanh bình từ ngày tôi ra đời đến tuổi
lên năm, khói lửa chiến tranh lớn dần theo sự trưởng thành của tôi, ngày càng
khốc liệt.
Thị trấn V.Đ. thân yêu
của tôi nằm trên QL.1, có bốn ngã đường: Vào Nam ra Bắc xuống biển lên rừng.
Theo hướng Đông xuôi về Hội An, cửa Đại. Hướng Tây ngậm ngãi tìm trầm, rừng quế
bạt ngàn, trường sơn lộng gió.
Cha nói con gái đằng
mình hiền ngoan mà đáo để, tính khí cương cường như đàn ông xứ Quảng. Nên
thường khuyên nhủ tôi: “Cơm sôi bớt lửa”.
Năm mười hai tuổi, tôi
đã biết điệu đà, má hồng lên e thẹn với đám con trai cùng lứa. Nhưng trong mắt
tôi, chúng nó như những đứa em, kể cả
lớn hơn tôi vài tuổi, tôi cũng gọi bằng thằng.
Một ngày đoàn xe nhà
binh chạy rầm rập qua thị trấn, mang theo những khuôn mặt đen sạm bụi đường.
Nhìn thoáng qua, ai cũng giống như ai. Đôi mắt người ngồi trên xe jeep xen giữa
lại khác, lạ lắm, cứ mãi ám ảnh tôi sau buổi tan trường. Đêm về, tôi tỉ mẩn vẽ
trên giấy cả đoàn xe nhà binh với con mắt ấy. Tôi tô đậm tròng đen với con
ngươi sáng quắt. Cây bút chì theo tôi vào giấc ngủ.
Trong đêm, một quả đạn
pháo, có lẽ bay vòng qua nhà tôi rơi vào chi khu. Mẹ đem ổ gà đang ấp xuống
hầm, tiếng túc túc túc nghe đồng âm với tiếng súng tắc-cù đâu đó.
Anh hơn tôi mười tuổi,
quen với thầy dạy toán của tôi. Tôi rắn mắt nhìn anh không chớp, đôi mắt ấy đã
in sâu vào lòng tôi trong chiêm bao.
Hai bông mai đen trên
ve áo trận không làm tôi ngạc nhiên, tôi hình dung tôi là người em gái nhỏ bé
trong bài thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan, nhưng tôi không có “hai người anh đi
bộ đội”. Tôi là con gái lớn nhất của ba mẹ tôi.
Anh nhìn tôi không nói
gì, rồi anh bắt tay thầy tôi quay ngoắc, tôi nghe như con tim rưng rưng…
Mẹ nói, nhìn bên ngoài
tôi như vô tâm nhưng nghịch ngầm và đa cảm. Hình như tôi làm bộ vô tình như lớp
áo, nhưng ẩn chứa tâm hồn muốn nổi loạn trong tôi?
Chưa xong đệ Tứ (lớp
9), tôi đã thất tình. Anh đi biền biệt, tôi cũng chẳng biết tên anh.
Không có mùa xuân nào
đẹp trong tôi. Thị trấn quê tôi như co quắp lại, mẹ cấm tôi đi chơi xa. Sân
trường thỉnh thoảng tập trung nhiều người lính dáng vẻ suy tư đạn dược đầy
mình, miệt mài lau chùi những khẩu súng pha màu thép lạnh lùng.
Tôi đăm đăm dõi mắt tìm
anh. Ai biết anh ở đơn vị nào, lính gì mà tìm? Tôi chỉ nhớ anh vì đôi mắt ấy…
Thầy gọi tôi lên bảng,
chứng minh hai tam giác đồng dạng. Sự đồng dạng trong tôi chỉ còn là những hình
ảnh người lính, họ giống nhau từ màu áo treilli, đôi giày cao cổ lấm bùn đen và
nón sắt, cả cây súng nữa. Họ ngoài kia, những đôi mắt u uẩn nhìn trời mây như
vô hồn.
Thị trấn ngập tràn sắc
lính và mùi thuốc súng, những chiếc xe bọc thép gầm gừ, xích sắt vẽ thành hình
tròn méo mó trên con đường nhựa nham nhở trước cổng trường. Chiếc áo dài trắng không
còn trắng nữa, tôi dừng lại giữa cầu nhìn dòng nước đục ngầu. Sông Vĩnh Điện
tách dòng Thu Bồn chảy băng qua Tứ Câu, nhập với sông Hàn, nhưng lòng tôi chơi vơi không xuôi
không ngược. Đôi mắt những người lính nhìn tôi, con bé gầy gò mái tóc mới chấm
ngang vai, nhưng đã mang trong lòng nỗi ưu thời mẫn thế. Thị trấn tôi không gái
điếm, không có chốn ăn chơi, chỉ có những xác người thỉnh thoảng bị trói ké, úp
mặt trôi theo dòng sông ra biển.
Một ngày, ba tôi bị băm
nát khuôn mặt, mẹ chỉ nhận dạng bằng nốt ruồi đen thầm kín. Đến khi chết, ba
cũng không giành đôi mắt cho tôi. Tôi tưởng tượng trong hai lỗ sâu trống hốc,
đôi mắt dịu hiền của ba tôi đang nhìn đâu đó, có khi nhìn lên trái hoả châu
trên kia đang lung linh và toả ra vệt khói trắng đục mù sương, tiễn đưa những
oan hồn về cõi vô cùng.
Mùa xuân lại về, thị
trấn quê tôi đã vươn mình thành thị xã. Nét phồn hoa đô thị đã xoá mất dấu chân
tôi, tôi lạc lõng giữa bao người son trẻ. Tôi đứng nhìn dòng sông lửng lờ trôi,
nhưng không còn xanh mát thuở nào. Những con đò ngang xuôi ngược, đưa tôi về
bãi dâu xanh ngút ngàn Gò Nổi đã chìm sâu vào lòng tôi thăm thẳm. Tơ lụa Duy
Xuyên óng ánh nắng chiều phai, mênh mông
tình người đã bay theo gió bụi.
Nhưng đôi mắt ấy đã
theo tôi gần suốt cuộc đời. Tôi vẫn không biết tên họ của Người.
Tôi không tưởng tượng
được đó là mẹ tôi. Ba tôi đang ở đây,
trên bàn thờ. Mẹ tôi ngoài chợ với cá mắm, dưa hành và hầm bà lằng hương vị,
người không ưa phải bịt mũi.
Cả đời mẹ lam lũ vì mấy
chị em tôi. Từ năm lên mười tôi đã lê lết ngoài chợ cùng mẹ, ba tôi chạy xích
lô máy. Chiếc xích lô cũng là “Mobile-home” của gia đình tôi. Cuối tuần, ba gom
hết mấy mẹ con đưa đi “picnic” chỗ này chỗ nọ. Lúc lên vườn cây trái Lái Thiêu,
khi vào sở thú, Tao Đàn hay về quê ngoại Gò Công, Tiền Giang.
Quê ngoại tôi là vùng
đất thiêng, nơi Từ Dụ hoàng thái hậu (Nghi
Thiên Chương Hoàng hậu) ra đời. Bà là chính thất Quý phi của vua Thiệu Trị,
thân mẫu vua Tự Đức. Bà Từ Dụ nổi tiếng về đức hạnh, biết yêu quý thần dân.
Có khi mẹ tôi là hậu
duệ của bà, nên dù học hành chẳng đến đâu nhưng gia đình tôi nề nếp, các em
chăm ngoan. Tôi là chị lớn, chưa hề khóc vì nghịch ngợm của các em tôi. Ba mẹ
chỉ hành nghề lao động bình thường, nhưng chị em tôi được học hành tử tế, tôi
không hề mặc cảm với bạn bè ở trường hay ra chợ.
Vậy mà bà ấy theo mẹ về
nhà, tự xưng là mẹ ruột của tôi! Bà ở đâu khi tôi chập chững và lớn lên từng
ngày trong căn nhà đơn sơ nhưng ấm tình của ba mẹ đã nuôi tôi khôn lớn?
Mẹ thắp hương lên bàn
thờ ba, lâm râm khấn vái điều gì đó, mẹ khóc. Mẹ khóc nhớ ba tôi hay khóc vì
gặp cảnh trớ trêu này?
Tôi dững dưng nhìn
người đàn bà lạ mặt, người ta nói nếu có tình máu mủ, lòng sẽ rung lên, mắt sẽ
rưng rưng, tim sẽ thổn thức. Nhưng tịnh không, lòng tôi lạnh ngắt, mắt tôi ráo
hoảnh, tim tôi đập bình thường…
Tôi đã mười bảy tuổi
đời, tôi không dũng mãnh để bẻ gảy sừng trâu, nhưng tôi là lao động chính từ
ngày ba mất, sau đó mẹ bị tật nguyền vì tai nạn giao thông.
Chiếc cyclo máy là bảo
vật, là người bạn thuỷ chung của gia đình tôi, như con chó Kiki. Nó đã cùng ba
tôi rong ruổi vạn nẽo đường, từ con hẻm nhỏ đô thành Saigon ra xa lộ, đến tận
quê ngoại xa xôi. Nhưng đành bán đi để có tiền cho chị em tôi ăn học.
Người đàn bà ấy là chị ruột
mẹ tôi. Mười mấy năm nay không hề lai vãng. Bà ấy đã có một gia đình sung túc,
bà ấy đã sống trong nhung lụa, bà ấy đã lên xe xuống ngựa, kẻ hầu người hạ. Vậy
mà thình lình tìm đến căn nhà nghèo nàn của mẹ con tôi.
Nhìn hai người, tôi
thương xót mẹ tôi quá chừng, mẹ tôi gầy
guộc bên cạnh người đàn bà quý phái và nung núc mỡ. Bà ra vẻ sụt sùi lấy khăn
chặm mắt, nhìn tôi:
-
Thật lòng con không biết
mẹ là mẹ ruột của con?
-
Chị Hai đừng hỏi.
Mẹ ôm chầm lấy tôi như
sợ mất, trả lời.
Tôi chợt nghĩ và niềm
căm hận không biết từ đâu bỗng ùa về, tôi định hét lên:“Bà đã giàu có mà còn
tham lam định cướp con người ta!”. Nhưng nhìn mẹ đang thổn thức, tôi im bặt.
Đường bê tông trước nhà
hắt lên cái nóng ngột ngạt của buổi trưa chớm hè, tôi đạp xe đến trường đón cu
Sâm, thằng em út được sinh ra sau ngày ba mất được bốn chín ngày, lòng tôi ngổn
ngang trăm mối. Mẹ đã đón nhận nuôi khi tôi chưa tròn một tuổi, để bà đi theo
ngã rẽ đời mình. Vậy ba tôi là ai?
Giáng sinh năm 1986,
mùa biển phương Nam sóng yên gió lặng,
người đàn ông một thời yêu đương, một thời hoa mộng của bà đã ra đi, để lại cho
bà chiếc mầm khốn khổ là tôi.
Bà theo người tình mới
về miền nào đó xa xôi, mẹ tôi nói tính cách của bà ấy đã khác xưa. Nét dịu
hiền, đa cảm hình như biến mất sau ánh mắt quắt lên, khi không vừa ý điều gì.
Bà đã được đổi đời, đổi cả nhân tính, vô cảm và vô ơn.
Nếu bà ấy thật là mẹ đẻ
và cật ruột của mẹ tôi, sẽ không đay nghiến khi lòng mẹ tôi đang đớn đau, khốn
khổ. Bà hăm he có đủ quyền lực, thậm chí đòi xét nghiệm ADN chỉ để giành lại
những gì không thuộc về bà.
Tôi đã trưởng thành và
có quyền lựa chọn. Có thể thân xác này
do bà ấy sinh ra, nhưng ba mẹ nuôi dạy tôi từ ngày còn đỏ hỏn, dù thanh bần
nhưng ba mẹ đã cho chị em tôi quá đủ đầy. Có thể tôi như cây cỏ không tên họ,
lắt lay sống nhờ mưa nắng của trời, tôi không thể được như em bé Stiêng đen đúa
kia, ngủ bình yên trên lưng mẹ, dù sống nhờ lòng bố thí.
Tôi oán hận bà ấy
chăng? Nhìn bên ngoài tôi cứng cỏi, nhưng đêm về lặng lẽ khóc thầm. Tôi ham học
và sắp thi tốt nghiệp, nhưng con chữ cứ nhảy múa rong chơi, không chịu vào đầu.
Tôi bước vào cổng
trường với tâm trạng mộng du, tôi khoanh tròn chữ “nhân bản” trong đề thi. Nhân phẩm và tự do của mỗi con người quanh
tôi có đưa tính nhân bản của xã hôi ngày càng phát triển hay lụi tàn?
Tôi trả lại tờ giấy
trắng cho thầy giám thị. Tôi thi hỏng.
Lại xuất hiện người đàn
ông bên cạnh người đàn bà.
Khi chạm mặt, ánh mắt của người đàn ông
khiến lòng tôi xốn xang. Sự lịch thiệp và nụ cười của ông, tôi không diễn tả
được nhưng ấm áp lòng mình. Trái ngược hẳn thái độ trịch thượng của người đàn
bà.
Lời xin lỗi mang theo
hơi hướm ăn năn có chạnh lòng người mẹ tội nghiệp của tôi? Tôi đã đọc đâu đó
lời của nhà phân tâm học Sigmund Freud: “Mặc cảm Oedipus, đứa trẻ chưa trưởng
thành, thể hiện sự quý mến người sinh thành thuộc giới tính khác mình nhưng lại
đố kỵ và căm ghét với người cùng giới”. Nhưng tôi đã mười tám tuổi.
Trong tôi đã hình thành
một thế giới quan lạ lùng. Mẹ tôi và hai người kia, mỗi người là một hành tinh.
Mẹ tôi hiền như trái đất, dù dẫm đạp bao lần vẫn bao dung, vẫn mang niềm vui
sống cho đời. Người đàn bà kia, như sao chổi lượn lờ, mang theo bao điều hắc
ám, muốn đâm sầm phá nát cuộc sống an bình của mẹ con tôi. Người đàn ông như
vầng trăng lúc ẩn lúc hiện, rải ánh lụa vàng khắp nhân gian, chở che và chạy
vòng quanh.
Đêm đã thật khuya, nhớ
lại lời phân trần của người đàn ông và đề nghị bảo lãnh đưa tôi sang Mỹ, khiến
lòng tôi bâng khuâng. Tôi quay sang bắt gặp ánh mắt của mẹ như khi gà gặp diều
hâu và im lặng.
Tiếng dép lệch xệch kéo
lê của mẹ từ ngày bị tai nạn tôi đã quen tai, nhưng đêm nay thanh âm nghe chừng
như thổn thức, nghèn nghẹn. Mẹ nằm xuống bên tôi, choàng cánh tay khẳng khiu ôm
tôi vào lòng, bầu ngực no tròn chứa chan dòng sữa cho chị em tôi ngày nào, đã
lép kẹp.
-
Mẹ nghĩ kỹ rồi, em Sâm
đã lớn lo cho mẹ được, con nên nghe
lời ba con. Ông ấy chỉ lo lắng cho tương lai của con thôi. Còn chị
Hai, dù sao con cũng là núm ruột của chị ấy, mẹ giúp chị ấy nuôi con đến tuổi
trưởng thành…
Những giọt nước mắt của
Mẹ rơi vào khoé môi tôi mặn chát, tôi khóc oà ôm siết mẹ vào lòng. Nhìn lên
trần nhà, mờ mờ sau màn sương của nước mắt, tôi bắt gặp đôi mắt của bà ấy, đôi
mắt của hổ mẹ lạc con, lòng tôi bỗng
dưng tràn ngập nỗi xót xa…
Tôi quyết định sang Mỹ,
có thể tôi muốn trốn chạy nghịch cảnh đời mình, nhưng điều tôi ý thức nhất
không phải vì tương lai của tôi mà vì mẹ và cu Sâm.
Cô Hương lắc đầu, cô
không thể ngờ người cô từng xem như vầng thái dương của đời cô, lại như vậy.
Người ta “đo ni đóng giày”, ông làm ngược lại. Ông uốn éo tấm thân phì nộn
trườn qua mọi ngóc ngách như lươn, đôi lúc trầy vi tróc vảy, chỉ có cô mới hiểu
được nội tình.
Có đôi lần trong cơn
hưng phấn lúc ái ân, ông thì thầm bên tai những lời như gợi ý ai đó muốn làm
tình với cô. Lạ thật, cô lại sướng ngất lên, buông mình theo cơn mê ngẫu hứng.
Sự đồng lõa đi vào giấc ngủ, sự thăng tiến của ông trên đường hoạn lộ lại nhiều
cơ may thuận lợi.
Phùng – Nghệ sĩ, búng
bốn ngón tay, thanh âm đồ, mi, fa, sol… như gieo vào lòng cô Hương dòng suối
mát ngất ngây. Ly rượu mạnh khiến cô bừng hồng đôi má, cuộn lên nỗi rạo rực khó
tả. Dáng người thanh tú, lịch lãm và tài hoa của Phùng – Nghệ sĩ, khác xa sự
kệch cởm quê mùa của ông Mạnh – chồng Hương, dù được khoác lên bộ veston thường
ngày, vẫn không giấu được cái đuôi bần cố nông.
Một ngày kia, Hương –
Tử Kỳ biến mất, Phùng – Bá Nha không đập đàn nhưng tìm quên bên nhan sắc khác.
Hắn sống bằng nghệ thuật mồi chài, những thân hình mệnh phụ nung núc mỡ, son
phấn và “viện thẩm mỹ” không thể xóa dấu thời gian. Giàu có bất chợt phất lên
mau chóng, vun cao sự hãnh tiến ngờ nghệch đến ngu ngốc. Những con vịt bầu hả
hê nuốt từng lời nịnh nọt qua những vần thơ được Phùng – Nghệ sĩ phổ nhạc và
ngất ngây trong niềm si mê giả tạo.
Không biết học từ đâu,
ông Mạnh đập bàn hứng chí như tìm ra chân lý:
-
Có cả thiên hạ cũng
không đong đầy đôi mắt mỹ nhân!
Nhìn đàn thiên nga
trắng muốt lượn lờ trên mặt hồ, ông hình dung đến đám mỹ nữ dưới trướng, có
khác gì tam cung lục viện thời vua chúa, nhưng chúng nó chỉ có xác không hồn.
Tiền tài, xe hơi nhà lầu là kim chỉ nam của cuộc sống.
Ông nhìn lại mình chỏng
chơ, đi như đi cà kheo. Không có gốc, gốc rạ cũng không còn nói gì gốc đạo lý.
Nền tảng văn hóa như rễ lục bình hời hợt, trôi tuột. Trách gì đám hậu sinh mông
muội.
Sự hào nhoáng phồn vinh
của bề mặt xã hội như bọt tuyết trời đông dưới ánh đèn sắc màu Hollywood. Chính
đám dân đen kia một thời nuôi giấu ông, khốn khổ không còn một mảnh ruộng vườn,
đang kêu gào đòi công lý. Ngày trước, ông không vì dân nghèo mà dấn thân đó
sao?
Trong đầu ông cái tư
duy nghiệt ngã, ma xui quỷ ám:“Ta sẽ được gì?” xuất hiện đầu tiên trong vai trò
“kinh bang tế thế”. Đôi lúc ông tự hào vì được cung phụng, những người đồng
liêu của ông cũng vậy, chỉ hiểu nghĩa lệch lạc: “Làm quan nhất thời…” nên ra
sức vơ vét, vinh thân phì da.
Cô Hương bên trời Tây
điện về bảo ông nên “cải tà quy chánh”. Ban đầu ông sửng cồ, khi xưa nghe hồi
chánh là phản bội, ôm chân đế quốc thực dân. Nhưng khi đã chán chê với đấu đá
quan trường và đang được sống trong nhung lụa, vinh hoa phú quý, ông lại nghĩ
đến loài chim thiên di bay về phương Nam nắng ấm, về miền đất hứa…
Những lời của cô Hương như nhát dao xoáy vào lòng ông:
“Thật ra chính ông là người có tội, ông đã đánh
mất niềm tin với người đầu ấp tay gối và thế hệ kế tục sau ông. Ông dung dưỡng
để thành phần bất hảo len lỏi và làm băng hoại đạo đức xã hội và trong lý tưởng
một đời của ông, đến hôm nay gần như đã đi vào ngõ cụt. Ông hãy tạt nước vào
vách đá xem sao, chỉ nhưng giọt nước li ti dội ngược vào mặt ông, còn lại rơi
theo nơi nó hằng có. Không thể trái quy luật tự nhiên của trời đất. Ông cố
cưỡng làm gì, đến nỗi khi chết mộ phần còn chẳng được yên.
Ngày ấy tôi là con bé ngờ nghệch, những
lời hoa mỹ đã đánh động từ sâu thẳm trái tim khát khao được làm người. Người ta
chết cũng vì những lời vỗ về ngon ngọt, ngưỡng vọng ánh trăng lung linh trên
bầu trời xanh thẵm không bao giờ với tới, mà quên thực tại của mình, để rồi một
ngày nào đó hoài niệm về nó, tiếc thương và ngậm ngùi, có ích gì cho con cho
cháu?
Chẳng thà làm đây tớ
đứa khôn hơn làm thầy thằng dại, có ngày nó quay lưng đào mồ tổ cha ông. Người
ta ngộ nhận truyền thống dân tộc là nền tảng văn hóa, nhưng truyền thống nào?
Truyền thống của con mối lính giương hai càng bén ngọt sẳn sàng cắt đứt đầu
những mối thợ lơ đễnh không tuân theo lối mòn đi trước, không ngay hàng thẳng
lối hay bầy ong cần cù bay đi tìm hoa thơm cỏ lạ, miệt mài hút mật về xây
tổ ấm cho đồng loại, cho đời?”
Phùng – Nghệ sĩ cất
cao giọng trầm hùng của bài hát một thời bừng bừng khí thế, băng băng tiến tới
không lùi, thề quyết chiến giết sạch lũ sài lang. Không gian khán thính phòng
nóng rực lên, nhưng lòng ông Mạnh lạnh ngắt. Ông đưa mắt nhìn những khuôn mặt
dưới kia, đượm màu mỏi mệt, thờ ơ. Ông đăm chiêu nhớ về những buổi chiều gần
tắt nắng, trong khu rừng già mênh mông, ông cùng chiến sĩ hòa ca, tiếng hát
hăng say vang dội và bừng sáng một góc trời, không hề sợ máy bay, tàu bò, đạn
bom của địch.
Những bài hát hào
hùng một thời ấy, e bây giờ tác dụng ngược không chừng. Giáo khoa lịch sử cũng
không còn dạy sự hà khắc của thực dân đế quốc. Sưu thuế và quản lý xã hội ngày
nay có khi còn nghiệt ngã hơn xưa?
Người đón cô Hương
tại phi trường lại là người lái xe cũ của ông Mạnh: Hai Nhum. Hiện nay là giám
đốc của một công ty kinh doanh bất động sản bề thế. Khu du lịch sinh thái
SPRING ZONE rộng hằng ngàn hecta, nằm xen giữa dòng sông thơ mộng, chảy băng
qua phía Đông thành phố và biển. Nơi đây ngày trước vốn là làng chài, cũng là
vùng chiến lược. Cô Hương bị ám ảnh bởi những hình ảnh đau lòng, xác thân của
những người dân vô tội tan tác bay lên ngọn cây, vùi dưới bãi cát trắng phau,
bởi bom mìn. Thời chiến tranh là vùng oanh kích tự do, tranh tối tranh sáng.
Hàng cây nghiêng ngã
bóng dưới ánh đèn cao áp, con đường vành đai tráng nhựa thênh thang, chạy vòng
quanh ngọn núi nhô ra biển, nơi có đồn tiền tiêu được xây dựng từ thời Lê,
Nguyễn. Những mái villa màu ngói đỏ ươm, nổi bật giữa vườn cây nhiệt đới xanh
um. Rì rào tiếng sóng biển vọng về nghe chừng như tiếng thở than, vì bị cách ly
với người dân hiền hòa đã bị di dời, tái định cư thô bạo.
Quê hương thân yêu
của họ, nay đã thành lãnh địa của giai cấp một thời là tôi tớ, được che chắn,
nuôi dấu để đi làm cách mạng.
Người tài xế dừng xe,
Hai Nhum chỉ tay về đền thờ có mái cong vút lên trời như móc câu:
-
Chị còn nhớ nơi này
không?
Không chờ cô Hương
trả lời, hai Nhum nói tiếp:
-
Đây là sân bay dã
chiến của địch, hằng trăm dân quân du kích
đã nằm xuống ở đây, không lấy được xác!
Hàng dương liễu vi vu
trong gió, như tiếng khóc than của những sinh linh hồn xiêu phách lạc, kêu gào
công lý cùng đám dân đen đã bị cưỡng bức xa lìa, để các lãnh chúa thời nay xây
dựng nên hoàng cung xương máu mang tên Khu Du lịch Sinh thái SPRING ZONE.
Cô Hương cảm nhận sự
phân tầng giai cấp rõ rệt quá, đối lập có thân thiện bao giờ. Nhìn những người
dân thập thò, không dám bén mảng về nơi chôn nhau cắt rốn. Họ cũng đã thiên di
ngược với những người quyền thế về nơi lạnh lẽo tối tăm, đến những nơi không
còn phương tiện để mưu sinh.
NHỮNG CHUYẾN PHÀ ĐÊM
Thằng Được bị cây roi
mây quất cái “trót”, hai tay hắn ôm
mông xuýt xoa, mặt nhăn quéo nhưng không khóc.
Hắn chỉ lượm hai trái
chuối phơi khô trước sân nhà tám Đẩu. Cả nhà tám Đẩu làm chuối ép ướp gừng phơi
khô, bỏ vào túi nylon, bán ngoài bến phà.
Thời chưa có cây cầu
vắt ngang, bến phà Cổ Chiên nối liền Tân Điền – Mỹ Đức (Bến Tre – Trà Vinh).
Dòng họ nhà thằng Được có truyền thống ba đời làm cách mạng ở huyện Mỏ Cày,
nhưng toàn là liệt sĩ. Thời nào cũng vậy, số phận chẳng có chi lạ kỳ, ai còn
sống sót làm to, xênh xang mũ áo, ai hy sinh chỉ để lại cho con cháu cái bằng “Tổ quốc ghi công” như nhà thằng Được.
Cha chết, mẹ hắn bước thêm bước nữa, cha dượng bị bắt lính rồi đào ngũ. Sống
vùng xôi đậu không xong, bồng bế nhau ra ngã ba Trung Lương thuê nhà bán hủ
tiếu, bán được bao nhiêu tiền chỉ đủ lo lót làm lính kiểng. Thấy vợ con nheo
nhóc, nhịn mãi không xong anh đăng lính. Ai đời chỉ mấy tháng, mẹ con thằng
Được trở thành “cô nhi quả phụ”!
Chị Dung - Mẹ thằng
Được, góa phụ của hai đời “liệt sĩ”,
thời thế đảo lộn nên chẳng được nhà nước nào phụ cấp, tám Đẩu không hiểu vì sao
ghét thằng Được thậm tệ. Những năm đầu thập niên 60, tám Đẩu cùng “ba sẳn sàng” với cha thằng Được, cái
thời chưa đủ lớn đã tham gia du kích, đeo quả lựu đạn bằng dây chuối ngang thắt
lưng, anh nào cũng tự hào, oai phong lẫm liệt. Số tám Đẩu không làm được quan
to, nên một đêm tối trời sụp hầm chông bị nhiễm độc, cưa giò. Đến thời hòa
bình, tám Đẩu chống tó đi tới đi lui xin chứng nhận thương binh, nhưng chẳng có
ông bà nào chiếu cố.
Tám Đẩu ghét mẹ thằng
Được ra mặt, quất được roi mây vô mông thằng nhỏ là lão sướng rơn, xem như trả
thù loại đàn bà không thủy không chung.
Chính quyền miền Nam
đổi tên Bến Tre thành tỉnh Kiến Hòa gồm: Cù lao An Hóa, cù lao Bảo, cù lao Minh
và thị xã Bến Tre là Trúc Giang. Chợ Lách, Đôn Nhơn, Mỏ Cày, Hương Mỹ, Thạnh
Phú thuộc cù lao Minh. Gia tộc thằng Được ở đó, đất ruộng nhiễm mặn chỉ trồng
được dừa, thuốc lá với mía.
Càng lớn tuổi mắt
kém, tám Đẩu mất dần thú vui, chức năng “nghe,
nhìn” chỉ còn một nửa. Lúc nào cũng ôm kè kè cái radio, đài nào nói có vẻ
thuộc “thế lực thù địch” tám Đẩu vội
vàng chuyển sang kênh khác. Riết rồi chỉ nghe được đài “tiếng nói Việt Nam”. Gặp tám Đẩu chớ nói tầm bậy, lão qui kết
thành phần “phản động” có khi bị nện
tó lên đầu. Cách mạng luôn có lực lượng trung kiên điển hình như tám Đẩu. Tám
Đẩu chỉ “chửi” cách mạng khi con lão
không được lên lớp hay tức khí nhìn cái chân què, nhưng không được công nhận
thương binh.
Phà đến phà đi là những
bờ vui, không riêng gì mẹ con thằng Được với nhà tám Đẩu, những chuyến phà là
nguồn sống. Cư dân hai bờ đã sớm ý thức “phi
thương bất phú”.
Những ánh xanh đỏ
chớp tắt với ngọn đèn pha sáng rực trên những chuyến phà là niềm vui rộn rã mưu
sinh của những thân phận đói nghèo, của bà con Tân Điền – Mỹ Đức. Dọc hai bên
đường dẫn xuống bến phà đủ loại hàng quán: Cơm, phở, hủ tiếu, café giải khát,
vé số, trà đá, bánh tráng kẹo dừa, bánh mì, bánh pía… các loại dịch vụ: xe ôm, bốc vác, xe lôi, nhà
trọ, kho hàng, cho thuê võng, nhà vệ sinh…
Chị Dung tần tảo nuôi
hai đứa con hai dòng, chị bán dạo bánh mì - chim rô ti. Được bỏ học, bán vé số
ở hai đầu bến phà Cổ Chiên.
Con Đào - gái lớn nhà
tám Đẩu, lấy chồng Đài Loan được mấy năm về thăm nhà lại làm mối gả con Mận cho
thằng em chồng. Đào xây cho vợ chồng tám
Đẩu cái nhà to nhất xóm, đãi đằng bà con suốt mấy ngày liền. Tám Đẩu mặt vênh
lên như cái thớt, không thèm ra xã nhận tiền trợ cấp thương tật.
Con Đượm - em thằng
Được, mới đó mà lớn trộng. Thằng Được nhổ giò cao khều như cây sào, sắm được
chiếc xe đạp trành chạy xe lôi. Đượm lên lớp mười một, đi học trong bộ áo dài
trắng thướt tha dễ thương quá chừng, đúng là “cha mẹ cú đẻ con tiên”.
Một hôm thầy giáo
theo con nhỏ về nhà, thầy nói:
-
Nhà trường chọn em
Đượm đi thi “nữ sinh thanh lịch
đồng bằng sông Cửu Long”. Xin cô cho phép.
-
Chèng đéc ơi! Thầy có
nói quá không đó?
Chị Dung trố mắt ngạc
nhiên nhìn thầy giáo trẻ, ông thầy
tướng trông bảnh quá, cở tuổi thằng Được nhà chị.
-
Dạ không, tôi được nhà
trường cử qua đây, tôi là giáo
Viên dạy thể dục của em Đượm.
-
Chà, vụ này tui hỏi
thằng anh nó coi. Mời thầy uống
nước. Chớ nhà thầy ở đâu?
-
Dạ, quê tôi ở Ba Tri.
Ra trường được phân công về
dạy ở đây. Nói xong, thầy đứng lên từ tạ ra về.
Chị Dung phân vân,
con Đượm học chưa đến đầu đến đũa bày đặt đi thi. Con nhà nghèo khổ muốn chết,
thanh lịch nỗi gì!
Con Đượm nãy giờ ngồi
im ru, mấy ngón tay xoắn qua xoắn lại tà áo dài, mái tóc ngang vai bay bay
trong gió, mặt đỏ lựng đẹp lạ lùng như tranh tố nữ. Thầy về lúc nào, em cũng
không hay.
Đượm nhớ như in từng
lời của thầy chủ nhiệm đã giảng dạy và em rất tự hào:
“Mặc dù người dân Nam
Bộ sống ven bờ sông nước, không hình thành làng mạc được bao bọc quanh lũy tre
lâu đời như Bắc, Trung Bộ, nhưng được gắn bó bởi những tộc họ từ những vùng
miền khác nhau, theo bước chân người xưa đi mở cõi và được giao thoa văn hóa
của nhiều sắc tộc, nên lòng người Nam Bộ bao dung, ít tính toán so đo…”.
Chín sông đổ ra biển
Đông như rồng uốn lượn trên đồng bằng Nam Bộ, nên người dân phương Nam sống
chân chất, có tinh thần “kiến nghĩa bất
vi vô dõng giả”, hiền hòa, hiếu khách, giản dị và rộng lượng như Cửu Long
Giang, có giận có hờn cũng như thủy triều lúc lên lúc xuống, rồi thôi.
Đượm ngồi suy tư,
nghĩ về quê hương Nam Kỳ lục tỉnh dấu
yêu, cha ông đã bao lần kiên cường chống giặc ngoại xâm, những anh hùng liệt nữ
đã quên mình vì nước. Dòng nước êm trôi đượm lắng phù sa, Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh, trải rộng
ngút ngàn qua ba tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp. Những người con gái
sông nước miền Tây Nam Bộ xinh xắn mộc mạc và trắng trong như bông sen, bông
súng. “Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh, gái
nào bảnh bằng gái Nha Mân”. Trái ngọt cây lành và dòng nước ngọt ngào của Cửu
Long Giang góp phần tạo nên hình dáng mỹ miều, làn da bông bưởi cho những cô
gái quê em.
Nhưng thầy Hưng chủ
nhiệm không tán đồng chủ trương đưa học sinh của mình dự thi. Trong phiên họp
hội đồng, thầy đã phản biện và đề nghị những việc nên làm: “Giáo dục các em ý thức về nhân phẩm của người phụ nữ Việt Nam và lòng
tự tôn dân tộc”. Thầy lý luận và minh chứng:
-
Đành rời xa nơi chôn
nhau cắt rốn đi làm dâu xứ
người hay lênh đênh như lục bình trôi của những cô gái làm nghề
“bia ôm”, massage, ca-ve… khắp mọi miền đất nước, không đâu nhiều bằng con gái
miền Tây. Nguyên nhân vì đâu? Chiến tranh đã lụi tàn hơn mấy chục năm, nền giáo
dục chúng ta đã làm được gì trên tinh thần ý thức đó? Không lẽ cái nghèo đói cứ
dai dẳng mãi không thôi?
Chúng ta chạy theo
cái lợi trước mắt, để rồi nhận biết bao hệ lụy về sau, chỉ biết thừa hưởng mà
không biết gìn giữ di sản của người xưa. Bản sắc dân tộc và văn hóa đích thực
đã phai mờ trong tâm trí những người mang danh kẻ sĩ.
Hình ảnh những người
thầy đáng kính đang hiện hữu đâu đây, canh cánh bên lòng nỗi niềm u uất và hổ
thẹn với hồn thiêng sông núi vì chúng ta giáo dục những điều kệch cỡm lai căng,
háo danh và hình thức chủ nghĩa, quên đi thiên chức dạy làm người.
Nắng chiều còn gay
gắt, chiếc xe lôi của Đức chơ vơ. Đượm cảm thấy lòng xót xa khi nhìn anh gầy
gò, nằm gác chân đợi khách.
Đượm nghịch ngợm lay
thành xe, tay dứ dứ ổ bánh mì nhân thịt heo quay:
-
Anh ăn đi, mẹ nói mai giổ cha. Chiều anh chở
mẹ với
Em lên nghĩa trang...
Được sực nhớ đến
người cha liệt sĩ, nhưng không tìm thấy xác và không di ảnh. Chị Dung đã xây
hai ngôi mộ song đôi, hai tấm bia mang tên hai người chồng đã khuất.
Có lẽ nơi xa xăm nào
đó, họ cùng ngóng nhìn về một dòng sông, những chuyến phà lặng lẽ buông tiếng còi
rời rạc trong sương đêm bảng lảng, ánh sáng như lân tinh bừng lên ngoài cửa
sông Cổ Chiên, nơi bao oan hồn của những người đã ngã xuống vì quê hương hay
nghiệp chướng?
Trên đường hành quân,
Song qua làng cô. Mái tóc lòa xòa rũ rượi, cô ngửa mặt khóc ngất rồi gập người
ôm xác mẹ chết vì đạn lạc vào lòng. Máu viền quanh lổ đạn bên đuôi mắt trái
nhăn nheo, khiến con mắt còn lại trợn trừng như ngạc nhiên, khi bỗng chốc bà đã
sang cảnh giới khác.
Song dừng lại, người
chỉ huy đẩy vai anh về phía cô. Song giúp cô đặt bà trên phản gỗ. Không phe nào thấy tử thương, nhưng mẹ cô chết!
Không có sự chôn cất nào đơn sơ hơn như trong cuộc chiến, Song cùng đồng đội
giúp cô đào huyệt sau nhà, cô lau nước mắt lúng túng không biết để mẹ quay đầu
về hướng nào! Cô chưa hề chứng kiến cảnh chôn người chết. Cha cô nghe nói chết
mất xác ở đâu đó, từ khi cô còn bé!
Chiến tranh kéo dài
quá lâu, cô đã gần mười bảy tuổi.
Song viết vội tên
mình cùng quê quán trao cho cô, xốc lại ba-lô chạy theo đơn vị nhưng quên hỏi
tên nàng.
Ngày tàn cuộc chiến,
Song tìm về chốn cũ. Không ai biết bên đường cái quan đã từng có căn nhà nhỏ,
nép mình dưới bóng cây trâm già. Trâm già đã chết vì đạn bom không còn dấu vết,
cũng đồng nghĩa với nấm mộ mẹ nàng có khi xương cốt đã tứ tán hay trôi theo
dòng nước lũ không chừng.
Đường đời vạn nẻo, biết
bao người ta đã từng trông thấy, nhưng không hề gặp lại cho đến khi ta giã từ
cuộc đời này. Em ở đâu, hỡi người không tên họ?
……
Ký ức như như dòng
thác lũ, những hình ảnh cứ lướt qua trong đầu Song như màn mưa ngoài kia, hàng
cây xao động, gió lay nhẹ những nụ hoa vàng ướt đẫm, rơi rơi bụi nước nhỏ giọt
theo mưa.
Sân ga hắt hiu như ga
tàu biên giới. Từ Suối Kiết, Gia Huynh, Trản Táo, Gia Ray… Đường sắt chạy băng
qua khu rừng mênh mông, những cánh rừng bị phát hoang để làm khu kinh tế mới.
Song thắt đai quanh bụng bằng sợi mây xoắn như xanh-tuya dắt con dao to bản, lầm
lũi băng rừng. Đàn chim giật mình vụt bay, để lại tiếng kêu lảnh lót vang dội
trong khu rừng bừng sáng dần cùng tia nắng đầu ngày.
Chiếc xe bò cọc cạch
nặng nề kéo lê thân gỗ dầu suôn đuột, nhựa chai rỉ ra mùi hăng hắc. Người con
gái da ngăm đen đưa mắt nhìn Song, hai bầu vú to tròn, sung mãn lắc lư theo
bánh xe gập ghềnh trên đường mòn lồi lõm vết xe be.
Song ngẩn người
chiêm ngưỡng thân hình vệ nữ giữa không gian tịch mịch của cánh rừng nguyên
sinh. Đôi mắt nâu tròn, rậm mi nhìn Song lạ lẫm. Nàng dừng xe dưới tán cây già
bước đến bên Song, chiếc váy xòe thổ cẩm màu trắng bạc viền tua len đỏ tương phản
với màu xanh của lá rừng, tiếng lục lạc reo vui theo bước chân nàng, anh nghe
nóng bừng hai bên thái dương, con tim trong lồng ngực như thiếu dưỡng khí, đập
rộn rã liên hồi.
Nàng lấy từ chiếc gùi
sau lưng nắm xôi vo tròn cùng cá khô nướng, mùi thịt tươm nồng trong gió xộc
vào khứu giác anh, nước miếng ứa ra trong vòm họng khô khốc. Đôi ngực trần như
khiêu khích, thoang thoảng mùi cỏ cháy với những sợi tóc mai vàng hoe dán vào
đôi má bầu bỉnh, những giọt mồ hôi phản chiếu tia nắng mặt trời óng ánh lăn dài
trên làn da nâu bóng.
Nàng ngồi xuống bên
Song, nhưng không nói một lời. Nàng ăn tự nhiên, ra dấu mời Song. Anh từ tốn
nhai từng miếng nhỏ dù bụng muốn ngấu nghiến tất cả. Áng mây đen từ đâu kéo tới
che khuất ánh nắng đã bắt đầu gay gắt, không gian dần mát dịu, đôi bò nghểnh cổ
dường như đang ngóng chờ cơn mưa. Mưa thật, mưa rừng tối trời vang dội tiếng rì
rào trên lá lan dần, mưa rơi nặng hạt thật nhanh.
Song hành động bất ngờ
trong vô thức, ôm choàng bờ vai và lấy chiếc mũ vải rộng vành đội trên mái tóc
nàng. Nàng không hề e lệ, ngả người nhìn anh với nụ cười tươi tắn lạ lùng. Những
giọt mưa như tắm gội và làm thanh khiết thân xác lẫn tâm hồn cả hai người, có lẽ
chỉ mình Song nghĩ vậy.
Lần đầu tiên va chạm
với da thịt tươi mát của cô thiếu nữ giữa mênh mông rừng, dưới cơn mưa tầm tả,
lòng Song rung động bồi hồi. Bản năng tính dục bừng lên mạnh mẽ, thân hình thon
gọn rắn chắc của cô gái như dán chặt vào ngực, vào đôi tay cuồng nhiệt ham hố của
Song. Anh tham lam hôn hối hả, dụi mặt vào giữa đôi vú căng tràn nhựa sống, cô
gái cong mình với đôi mắt nhắm nghiền và làn môi hé mở, Song rướn người, chợt
nhận ra mình đã đi vào nơi sâu thăm thẳm của sự khoái lạc bất ngờ…
Song theo nàng về bản,
những người đàn ông dân tộc Mạ buông cần trúc ché rượu nhìn Song, những khuôn mặt
cùng với đôi hoa tai bằng ngà voi trắng đục hướng về nàng như dò hỏi.
Bộ tộc Mạ của nàng
theo phụ hệ, nhà trai chủ động trong hôn nhân nhưng cậu nàng: Chủ rừng (Tom
Bri) lại có tiếng nói quyết định, chấp thuận cho cháu gái mình được phép chọn chồng.
“Boon” của nàng nằm dọc theo con suối thơ mộng, róc rách chảy từ ngọn thác
Damb’ri kỳ vỹ. Người Mạ không có họ, tên nàng là Ka Mang để phân biệt với tên
nam giới: K’…
Theo tập tục, sau lễ
cưới Song phải ở nhà vợ cho đến khi nộp đủ đồ sính lễ. Nhưng Song chẳng có gì!
……….
Trời đất giao hòa, mặt hồ buổi xế trưa lặng gió soi rõ khuôn mặt hốc hác
đen sạm của Song. Bức tranh kỳ dị do mồ
hôi muối loang lỗ trên lưng chiếc áo lính bạc màu bởi nắng mưa, vùng cao nguyên
ngút ngàn rừng cây hoang dại. Rẫy bắp đang ngậm sữa, những vồng sắn vồng khoai
lang củ chưa đủ lớn, nhưng ngày đêm mong sớm đến ngày thu hoạch là niềm mơ ước
của vợ chồng anh.
Rời vùng đất ba-dan màu mỡ của cánh rừng
miền Đông Nam bộ, hai vợ chồng lếch thếch dắt díu nhau về vùng ngoại ô này,
sinh nhai bằng nghề bán hoa kiểng rong.
Cơ
hội đến bất ngờ, chủ vườn giao cho vợ chồng Song cai quản, chăm sóc vườn cây.
Những bonsai, gốc kiểng già cỗi từ miền Bắc xa vời theo từng chuyến xe vào Nam,
cuộc sống sung túc dần lên. Từ ngày giã từ lam lũ, sắc diện cô đổi thay từng
ngày, nước da bánh mật duyên dáng, càng đẹp đẽ hơn xưa.
Dù thành chồng thành
vợ đã hơn mười năm, nhưng chưa hề nghe tiếng khóc chào đời của con trẻ. Thời
gian gần đây vợ Song không vui, chung
quanh nàng biết bao nhiêu mầm non xanh tươi mơn mởn, tíu tít nói cười. Đôi khi
cô đăm chiêu và âu yếm nhìn lũ trẻ điệu bộ xinh xinh, đôi má phúng phính hồn
nhiên vui đùa, khiến cô ước ao tất cả các cháu là con của mình. Cô nhớ về những
ngày tháng cũ, giữa rừng xanh đại ngàn vùng cao nguyên lộng gió, nơi buôn làng
heo hút ấy những điệu “Ya liau”
(giống như “Khan” - trường ca của người Ê-đê) trong những lần lễ hội đâm trâu. Nàng đã “ưng cái bụng” khi chọn Song, nhưng từ
ngày về xuôi xa rời nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nàng như cánh hoa lạc loài,
cô đơn giữa phố thị phồn hoa.
Cô đến với Song do sự
xếp đặt như chuyện Vi Cố ngày xưa, có phải là duyên số?
………..
Người phụ nữ đi xe máy, sau ba-ga hàn khung
sắt vững chãi treo đầy hoa lan nhiều sắc màu và chủng loại, ngơ ngác nhìn vào
sân vườn. Những đài hoa hồ điệp đang kỳ mãn khai, xanh lam, trắng muốt, tím, đỏ, hồng, vàng
lung linh trong gió…
Vợ Song đon đả mở cổng mời vào, sự hàn
huyên tâm sự dường như gợi nhớ những kỷ niệm xa vời nào đó của hai người đàn
bà…
Ka Mang nhìn người phụ nữ:
-
Chị Ngân này, sao chị tìm được mình?
-
Mình thường hay qua đây, nhìn người
giống Ka
Mang…
-
Đã gần hai mươi mùa rẫy rồi! Chị
Ngân không lên
tiếng,
mình nhận không ra.
Sau ngày mẹ chết, từ quê hương Tánh Linh
Ngân theo dòng sông La Ngà di dần về hướng Đồng Nai, Ngân nằm sùi bọt mép vì
đói. K’Riêng – anh ruột Ka Mang, cõng cô về bản. K’Riêng được vợ trời cho.
Tập tục người Mạ có lệ vợ cưới lâu ngày
không con, có quyền “nối dây” như vợ
chết, vợ cũ trả về nhà cha mẹ ruột nhưng Ngân không biết về đâu, đành mang gùi
về xuôi.
Trên bước đường lưu lạc, cô chạnh nhớ về
người lính trẻ năm nào đã giúp cô chôn cất mẹ. Quê quán người ấy cô đã quên,
nhưng tên mãi nhớ…
Ra đến Định Quán cô nhìn ba hòn đá chồng
lên nhau chênh vênh, cao vòi vọi (Đá Ba Chồng thuộc di chỉ văn hóa Óc Eo Phù
Nam ở cao nguyên Đông nam Bộ), cô liên tưởng đến Yang Bri (thần rừng), Yang Kol
(thần lúa), Yang Bờ nơm (thần núi), Yang Us (thần lửa)…
Cô quỳ xuống van xin thần linh giúp cô
chân cứng đá mềm…
…………
Song không thể ngờ Ngân là cô gái năm xưa.
Sự gặp gỡ tình cờ ngày ấy không hề để lại một chút gì cho bây giờ gợi nhớ. Hình
ảnh còn lại nơi Song là cô gái bé bỏng trong căn nhà nhỏ, dưới gốc trâm già.
Anh cũng không còn hình dung được khuôn mặt của cô, chỉ phảng phất ánh mắt u
buồn và không gian khói lửa của chiến tranh…
Ka Mang đưa Ngân về ở hẳn trong nhà, có
Ngân khu vườn hoa như tươi hơn sắc thắm. Khi Ngân về làm vợ K’Riêng rồi ra đi,
Song chưa làm chồng Ka Mang.
Hình như quan niệm một vợ một chồng của
dòng tộc Mạ không còn trong đầu Ka Mang. Có những đêm nàng tỉ tê cùng chồng,
nàng “ưng cái bụng” cho Ngân cùng làm
vợ, nhưng Song gạt phắt:
-
Mình không con cũng đâu có sao! Có
con phải nỗ lự
làm
lụng bằng hai bằng ba, để lo cho chúng nó sau này. Anh phải vất vả hơn bây giờ,
hãy giành thời gian ấy chăm sóc cho Ka Mang của anh.
-
Phải có con lo cho tuổi già…
-
Ka Mang đã giúp đở gì cho cha mẹ
chưa? Hay chỉ vì
anh,
theo anh đến cuối cuộc đời?
………..
Người Mạ khi săn hay làm rẫy thường mang
theo xà gạc, tên ná, dao rựa và theo suốt đời mình. K’Riêng bỏ bản làng, cùng
chiếc thuyền độc mộc bơi dọc theo sông La Ngà đi tìm Ngân… Tập tục đã khiến vợ
chồng K’Riêng chia lìa, nhưng lòng anh vẫn luôn nhớ về người vợ “Yang” cho.
Những đêm trăng, Ngân dâng tâm hồn mơ mộng
của cô gái thấm đẩm văn hóa miền xuôi hòa nhập cùng tiếng khèn sừng trâu, sáo
trúc của người chồng rắn rỏi, mạnh mẽ
miền ngược. Tiếng vi vu trong gió, giữa rừng xanh bao la quyện theo giọng hát cao vút của Ngân, xen lẫn
tiếng róc rách của dòng suối giữa rừng đại ngàn...
Ánh trăng bàng bạc xuyên qua kẻ lá, dát
vàng lấp lánh mặt nước suối hiền hòa. Họ ngồi trên phiến đá bên nhau trần
truồng, đẹp lộng lẫy như hai bức tượng cẩm thạch.
Tất cả mọi lo toan đời thường không còn
hiện hữu.
Đến gần hồ Trị An mênh mông sóng nước,
K’Riêng bỏ thuyền lên bờ, hành trang chỉ chiếc xà gạc và con dao rừng. Trang
phục lạ lẫm với chiếc khố và áo thổ cẩm xẻ tà, vạt sau dài che mông đã bạc màu,
chân không giày dép, tóc búi sau gáy đã khiến bao người nhìn theo nghi ngại.
Lần đầu tiên K’Riêng chứng kiến tai nạn,
chiếc ô tô hung hản tông vào người đàn ông. Máu tràn ra mặt đường, K’Riêng
hoảng hốt chạy đến ôm người bị thương
vào lề đường, anh nhìn theo chiếc xe rồi gào lên những âm thanh kỳ lạ, uất
nghẹn.
Nhiều người đi ngang không ai dừng lại.
Anh chạy ra giữa đường, dòng xe cộ lạng lách tránh anh. Anh vung tay hò hét,
chỉ trỏ…
Đám đông bu quanh, người đàn ông đã chết.
K’Riêng bị đưa vào đồn công an, người ta kết luận tại nạn do K’Riêng khuấy rối
giao thông.
K’Riêng bị câu lưu, anh không biết chữ.
Những người dân chứng kiến minh oan cho K’Riêng, anh bước ra khỏi đồn và không
hiểu chuyện gì, K’Riêng ngơ ngác giữa cảnh phồn hoa và lạc lõng trong xã hội
văn minh của người Kinh.
Song dừng xe nhìn người đàn ông sơn cước giữa sắc màu phố thị, bỗng anh giật mình khi nhận ra K’Riêng, anh vẹt đám đông đang lom lom hiếu kỳ, K’Riêng cũng nhận ra Song, họ ôm chầm lấy nhau và nhảy nhót quay cuồng như ngày nào bên đống lửa bập bùng đêm lễ hội đâm trâu, mừng hạt lúa đã trẩy về của vụ mùa bội thu.
Người đã xa rừng nhưng K’Riêng vẫn giữ
nguyên trang phục của mình, anh không thể chịu được những bộ áo quần lai căng
của người Kinh, vẫn chiếc khố viền tua màu đỏ, tóc búi và chiếc áo thổ cẩm. Nhưng
Ka Mang đã quên cội nguồn, quên tập tục, quên bản làng quên cả dòng suối tuổi
thơ để theo chồng về đồng bằng, về nơi náo nhiệt phồn hoa.
Gà đã gáy nhưng trời chưa đủ sáng. Ánh
trăng thượng tuần vắt chơi vơi trên nền trời xanh thẳm, Song bật dậy nhìn
quanh, Ka Mang không ở bên mình. Ngân ngạc nhiên khi không nghe tiếng tia nước
rơi rạt rào trên lá, trên cây của K’Riêng.
Hai anh em đã về nơi họ đã ra đi, trở về
buôn làng của họ: Bộ tộc Mạ hiền hòa trong rừng sâu đại ngàn với tiếng chim hót
bình yên và dòng suối trong veo thơ mộng muôn đời.
MÂY TRẮNG
Tôi gặp nàng trong
phòng khách “Rose Massage – Xông Hơi”, khuôn mặt nàng dễ nhìn với thân hình hơi
gầy, làn da trắng hồng nhờ ánh đèn ne-on. Nàng nhìn thoáng qua những người
khách như chờ đợi một bàn tay vẫy, An phẩy tay:
-
Mầy có quyền chọn lựa,
thiếu gì…!
Tôi gật, đi theo
nàng. Căn phòng nhỏ kín đáo, nàng kéo tấm ri-đô che khuất phần kính trong gắn
trên khung cửa, chiếc giường trải nệm – drag trắng, khoét lỗ tròn vừa úp khuôn
mặt để thở. Nàng khoan thai cởi từng chiếc nút áo của tôi với nụ cười gượng gạo:
-
Xông hơi đi anh, em đi
lấy thêm bó lá… !
Tiếng sè sè của hơi
nước từ từ lan tỏa mịt mù, trong ánh sáng mờ mịt như sương hình bóng nàng chập
chờn trong bộ áo khoác đồng phục trắng tinh thấp thoáng ngoài kia như huyễn
hoặc, mơ hồ.
Mồ hôi bắt đầu rịn ra
từ lỗ chân lông chảy dài trên lưng, trên ngực. Những giọt tiết ra từ vầng trán
xếp đầy nếp nhăn xuôi theo sống mũi, gò má len vào khóe môi tôi mặn chát. Tôi
sẽ ngồi đây, mồ hôi sẽ tống ra khỏi thân thể tôi những dòng bỉ cực, như tẩy uế
tâm hồn bệnh hoạn của tôi lúc nào cũng nghĩ đến đàn bà…
Bồn tắm pha nước ấm
thơm tho, tôi ngâm mình kỳ cọ cựa quậy để có cảm giác thân thể của mình sẽ hết
sạch bụi trần ai. Nàng hỏi:
-
Anh gội đầu loại gì: Tresemme Keratin Smooth, L'Oreal,
Clear, Dove, Pantene, Sunsilk….?
Hình như nàng phát âm
tên các nhãn dầu gội đầu nước ngoài rành rọt quá quen thuộc với nàng, có khi nó
trở thành câu nói cửa miệng, không chỉ để dành cho riêng tôi. Chưa bao giờ có
ai gội đầu cho tôi, ngoại trừ mẹ.
Từ phương Nam, tôi
đến thành phố xa xôi này tìm gặp An, mục đích để có một công việc gì khả dĩ
kiếm cơm ngày hai bữa và biết đâu gặp cơ hội tốt đẹp hơn không chừng. Tôi đâu
mong gì được lọt vào chốn phù hoa…
Tôi ngượng ngập buông
lời vô duyên hết chỗ nói:
-
Loại dầu gì em… thích!
Nàng phì cười, lộ hai
hàm răng trắng ngà dễ thương vô cùng. Mười ngón tay nàng ân cần miên man trên
tóc tôi, hơi ấm không rõ từ lòng nàng hay từ làn nước ấm khiến tôi dễ chịu.
Nhìn thân mình trần truồng trước mặt nàng tôi cảm thấy bất lịch sự, co vội hai
chân che khuất của nợ đời.
Nàng bảo tôi nằm sấp
úp mặt vào lỗ, xuôi hai tay. Tôi cảm thấy yên lòng nhờ chiếc khăn lông trắng
tinh che khuất cặp mông sần sùi đen nhẻm của tôi. Đôi tay nàng có vẻ mạnh bạo
so với thân hình mảnh khảnh của nàng, hai ngón tay cái như có thần lực “miết”
vào cơ thịt còm cõi khiến tôi co rúm người. Mùi nước hoa hay mùi tóc nàng phả
lên dìu dịu, tôi có cảm giác nàng nhẹ tênh như bông khi ngồi trên lưng tôi, sự
va chạm xác thịt từ nàng lạnh mát lại dâng lên trong tôi nỗi ham muốn lạ kỳ.
Con thú trong người
tôi bừng lên mạnh mẽ, tôi ngửa người ôm nàng, bầu ngực mơn mởn áp sát trên da thịt tôi ngây
ngất, nhưng nàng nhẹ nhàng trườn thoát khỏi đôi tay hung bạo và khiếm nhã của
tôi. Tôi cảm thấy mình vừa thất lễ và thô bỉ với nàng.
Tôi không cam lòng
nhìn nàng ra sức massage cho tôi. Những giọt mồ hôi khiến tóc mai của nàng bết
vào đôi má trắng xanh xao. Đôi mắt nàng u uẩn dù được ngụy trang bằng những nụ
cười. Nàng vuốt tóc, ngồi bên tôi:
-
Anh làm nghề gì? Trông
anh hơi khắc khổ…
Tôi im lặng nhìn
nàng. Mồ hôi tẩy xóa lớp phấn hồng lộ ra đôi mắt hằn dấu chân chim, nàng không
còn trẻ nữa…
Tiếng chuông báo hết
giờ, nàng ấn tôi nằm xuống. Chiếc điện thoại Nokia rung lên khe khẽ, âm thanh vang lên chói tai trong căn phòng
im ắng. An vừa mới mua tặng tôi, tôi xin nàng số điện thoại. Nàng lấy trên bàn
nhỏ kê sát đầu giường chiếc điện thoại giống tôi, nàng hỏi:
-
Điện thoại anh số mấy?
Tôi ngớ người, mới sáng nay An chỉ hướng
dẫn tôi “bấm nút” để nghe và trả lời. Nàng giật lấy và bấm số nàng, tiếng
chuông thánh thót vang lên bài ca vọng cổ:“…Điệp ơi mai anh lên chốn thành đô
có nhà xe rực rỡ, xin đừng quên bến đò ngang con sông nhỏ chốn quê xưa em vò võ
mong… chờ!”. Nàng lưu giúp tôi,
tên nàng: Bạch Vân.
An đã ra về bỏ tôi ở lại, tiếc gì một suất
“phụ trội” để nghe nàng kể chuyện đời:
Quê hương nàng từng là thủ phủ Diên Khánh
xưa kia, vùng đồng bằng được bồi lấp bởi sông Cái Nha Trang (sông Phú Lộc, sông Cù), nhưng
số phận nàng bị đẩy đưa như mảnh ván thuyền chài sau cơn bão tố…
Trước khi vào đây, An đã dặn dò:“Đừng nghe ca-ve kể chuyện, chớ nghe thằng
nghiện trình bày” nhưng “Ở đâu cũng
có anh hùng, nơi đâu cũng có thằng khùng thằng điên”.
Những người khách không dành ưu ái cho
nàng, nhiều lần nàng tủi thân khi được chọn là người cuối cùng, dù sao cũng còn
may. Thời gian nghiệt ngã và sự đào thải là quy luật bất biến, phấn son không
thể che lấp vết hằn năm tháng ở tuổi hơn ba mươi như nàng. Nơi này, những đóa
hồng mơn mởn tươi mát, trang phục khiêu gợi tăng thêm vẻ kiều diễm, rực rỡ dưới
ánh đèn ma quái và hơi nồng men rượu của những vị khách phè phỡn,
lắm của nhiều tiền.
Đôi lúc nàng phản đối và phẫn nộ
vì những hành vi nham nhở của những người đàn ông mang tâm hồn dã thú, bóp véo
thô bạo đến tím bầm đùi, ngực của những thân thể non tơ. Nơi đây, nàng như
người chị cả của đàn em gái thơ ngây bị đẩy đưa từ miền sông nước xa xôi lang
bạt đến vùng đất được mệnh danh “Kỳ quan
của thiên niên kỷ mới”.
Sau giờ làm việc, nàng ngồi đếm những đồng
tiền “bo” và tic-kê rồi lăn ra ngủ như chết với thân thể rã rời. Sự vận động
thường ngày của hai bàn tay khiến cơ vai và ngực nàng săn chắc lồ lộ. Sau khi
tiệm massage đóng cửa, các em thay nhau tự nguyện tẩm quất cho nàng, nghịch
ngợm “bú tí” khiến nàng co rúm người
và các em vô tư cười thoải mái quên mình đang cách xa diệu vợi mái ấm gia đình
có mẹ có cha có bầy em thơ dại. Nước mắt nàng chảy dài nhớ về đứa con gái bé
bỏng ở quê nhà, có bãi thùy dương cát trắng cùng bà ngoại không còn được khỏe.
Điện thoại của tôi đổ chuông, An gọi:
-
Chết
dí rồi phải không, khuya rồi về đi!
Ánh đèn đường len vào con hẻm nhỏ pha trộn
ánh đèn màu nhấp nháy của bảng hiệu “Rose Massage – Xông Hơi” khiến tôi nhức
mắt, lòng miên man nhớ về gia đình bé nhỏ của tôi trong kia, tôi cũng đang tha
phương cầu thực đâu khác gì em.
Đường phố vắng tênh, mùa đông miền Bắc
lạnh thấu xương, chiếc áo bông An để lại cùng chiếc “mũ ni che tai” không đủ ấm
khiến tôi run lên sau mỗi cơn gió lùa, lá bàng rụng đầy lăn tròn trên vĩa hè
xào xạc khiến lòng tôi cũng đỡ cô đơn.
Ngã tư “Loong-Toòng” nơi giao cắt giữa QL18 và đường Trần Hưng Đạo – Cao
Xanh cũng là nơi giáp ranh của bốn phường trung tâm thành phố Hạ Long: Cao
Thắng, Cao Xanh, Trần Hưng Đạo và Yết Kiêu.
“…Loong – Toòng xuất xứ từ tiếng Pháp:
Plantont nghĩa là nhân viên “sai vặt”, người Hoa kiều thì đọc là loong - toòng.
Chuyện kể rằng thời Pháp còn khai thác than, ở khu vực phường Cao Xanh, Cao
Thắng có một văn phòng mỏ, ông già làm chân loong toong không gia đình sống tại
khu đồi và chết tại đây. Những người Hoa kiều đồn rằng ông già rất linh thiêng
nên đã lập đền thờ và gọi là đền Loong Toòng… Sau này, khu đồi đã bị san gạt để
mở rộng đường vào Hà Lầm mà ngày nay gọi là đường Cao Thắng, cái tên Loong
Toòng tồn tại đến bây giờ.”(Nguyễn Gia
Phong-Báo Quảng Ninh).
Màn đêm loang ra, trải dài bóng tôi vào
cõi tối tăm mơ hồ, không còn chiếc xe ôm nào chờ khách. Tôi định gọi An, nhưng
chân rẽ vào nhà nghỉ bên kia đường Trần Hưng Đạo, người bảo vệ nghe giọng “trọ trẹ” của tôi mở cửa đưa tôi vào
phòng và bật đèn sưởi – loại đèn có resistant tỏa nhiệt của Trung quốc, hơi ấm
lan tỏa khiến tôi dễ chịu.
Tay run run đốt điếu thuốc, chợt nghĩ đến
và tôi điện thoại cho nàng, tiếng chuông vang lên bài ca vọng cổ: “…Điệp ơi mai anh lên chốn thành đô
có nhà xe rực rỡ, xin đừng quên bến đò ngang con sông nhỏ chốn quê xưa em vò võ
mong… chờ!”. Tôi hồi hộp như thuở còn đi học, như
lần đầu hò hẹn…
Giọng Bạch Vân trong vắt:
-
Anh hả! Về đến nhà chưa?
Tôi bỗng dưng dạn dĩ thì thầm:
-
Nghe bài “Đêm đông” thấm thía làm sao, anh cách em
chỉ một con đường… Em đến với anh
không?
Nàng im lặng, thời gian trôi đi từng khắc chậm chạp, tôi nghe rõ nhịp
đập hồi hộp của con tim. Tôi cho số phòng và tên nhà nghỉ. Nhìn con thạch sùng
tặc lưỡi cô đơn , nhưng không hiểu sao tôi tin nàng sẽ đến.
Chiếc áo khoác nhung đen dài tay làm nổi bật làn môi và đôi má tím tái
của nàng, đôi mắt nàng nhìn tôi ngạc nhiên nhưng không e ngại, có lẽ dáng dấp
quê mùa và cà quỷnh của tôi khiến nàng yên lòng hay đồng cảnh tương lân?
Sau khi nhận tiền “trà nước”, người bảo vệ mỉm cười.
Tôi ôm nàng vào lòng chuyền chút hơi ấm từ tôi, nàng khẽ khàng treo
chiếc áo khoác. Nhìn từ sau lưng, thân hình nàng thật đẹp, màu da trắng hồng đã
trở lại trên khuôn mặt nàng, đôi mắt nhìn tôi như dò hỏi:
-
Em không biết gì về anh, nhưng nghe
giọng miền Nam
Em đã có cảm tình, anh có coi thường
em không?
-
Em biết không, lòng nhân ái hay lòng
ái quốc cũng lớn
dần lên theo từng bước chân người
đi. Có khi gặp nhau ở Nha Trang, chắc gì anh và em có sự niềm nở và tin cậy như
ở nơi đây?
-
Anh ra đây làm gì? Em chỉ thấy từ
Bắc vào Nam tìm
kế sinh nhai, ra đây chỉ có bọn em…
-
Hạ Long dễ sống em ạ! Em lên nghĩa
trang Đèo Sen
Mà xem, những ai nằm ở đó? Thái
Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hải Phòng, Thanh Hóa, Bắc Giang… Những người phu mỏ
than năm xưa nằm lại nơi này, bây giờ con cháu họ là người Hạ Long, Quảng Ninh.
Nơi giao lưu và hội tụ văn hóa nhiều vùng miền sẽ không còn sự kèn cựa và cục
bộ.
-
Nhưng nơi đây đâu phải quê nhà?
Tôi ngượng ngập để nguyên áo quần nằm xuống, vòng cánh tay ôm thân hình
mảnh dẻ, nàng rướn người đưa tay nghịch ngợm hàm râu tôi lởm chởm đã mấy ngày
chưa cạo, bỗng nàng ngồi bật dậy:
-
Quần áo anh hôi qua, anh cởi hết ra
đi để em giặt, mai
khô.
Nàng tự nhiên như người vợ hiền thục. Tôi cởi áo nàng, đôi vú trắng mịn
vồng lên sau coóc-xê… ánh đèn ngủ soi hai chiếc bóng khỏa thân trên vách lờ mờ.
Tôi bế nàng lên giường, nàng cong người lọt thỏm vào lòng tôi. Tôi tham lam xoa
nhẹ khắp làn da tươi mát của nàng, bỗng tay tôi chạm phải vết sẹo sần sùi trên
hai bắp đùi, tôi và nàng cùng ngồi bật dậy. Dưới ánh đèn ne-on sáng trưng, Bạch
Vân ngậm ngùi:
-
Cũng vì “Cây quế Thiên Thai mọc ngoài khe đá/ Trầm
Nơi Vạn Giã hương tỏa sơn
lâm”. Cha em theo các “điệu” tìm trầm mất tích, mẹ em hóa điên. Mười sáu
tuổi em theo chú vào sâu trong rừng núi âm u tìm trầm hương, kỳ nam mong được
đổi đời và biết đâu em tìm gặp được cha, dù sống hay chết. Thằng cha con em ở
cùng làng, biết nhau từ ngày còn nhỏ cũng phu đi trầm. Trong một lần say rượu
hắn đột nhập vào lều định hiếp dâm, em chống cự bị hắn chém ngang đùi. Ngất đi,
nhưng hắn cũng đã để lại trong em đứa con gái bây giờ, sau đó hắn trốn
biệt…
Em thù ghét và ghê sợ đàn ông. Em đã sống trong đêm trường trầm cảm, đôi
khi tiếng khóc bé thơ đánh thức tình mẫu tử le lói trong em nhưng hình ảnh man
rợ đầy thú tính của hắn cứ ám ảnh, khiến em nhạt nhẽo ngay cả chính con mình.
Em không còn cảm xúc khi gần gũi đàn ông, không hiểu sao em lại nằm đây…!
Ánh sáng của buổi bình minh từ bên kia Lán Bè,
Cẩm Phả hồng lên rực rỡ. Dãy núi đất Ba Đèo từ hướng Bắc của Hòn Gai nhìn ra
vịnh Hạ Long mờ mịt trong sương. Trên hai đỉnh đồi cao nhất của dãy núi đất này
quân Pháp đã xây hai lô cốt để kiểm soát hướng tây có bến phà Bãi Cháy, Cửa Lục
và kiềm chế hướng đông từ Cẩm Phả về trung tâm Hòn Gai. Chính các lô cốt này đã
từng nã súng xuống các phố Hòn Gai và đầu phố Lán Bè. Người Pháp cũng cho xây
Nhà thờ xứ họ Hòn Gai, cùng với Lán Đạo (phố Nhà Thờ ngày nay) là cụm dân cư theo
công giáo toàn tòng của Nam Định tản cư ra Hòn Gai.
Bạch Vân đã ngủ thiếp đi từ lúc nào, vầng trán gợn nếp, khuôn mặt em lộ
vẻ đăm chiêu trong giấc nồng, không bóng dáng của an nhiên.
Tôi viết vội lời giã từ nàng. Đường phố vắng tênh, Hòn Gai chỉ thức giấc
và nhộn nhịp sau khi mặt trời đã hắt ánh sáng ban mai làm tan những giọt sương
long lanh trên cành lá của đỉnh núi Bài Thơ.
“Núi Bài Thơ xưa kia có tên là núi Rọi Đèn, tên chữ là Truyền Đăng Sơn. Tương truyền rằng,
ngày xưa lính thú gác trên đỉnh núi khi phát hiện có giặc đến thì đốt lửa báo
về kinh thành. Từ đó xuất hiện tên núi Truyền Đăng.
Năm 1468 - Quang Thuận thứ 9, vua Lê
Thánh Tông đi tuần du ở vùng Đông Bắc,
dừng thuyền dưới chân núi Truyền Đăng để uống rượu ngâm thơ. Xúc động trước
cảnh đẹp sơn thủy hữu tình, vua Lê Thánh Tông đã cho khắc một bài thơ lên vách
đá tạm dịch ý như sau:
Nước lớn
mênh mông, trăm sông chầu vào
Núi non,
la liệt rải rác như quân cờ, vách đá liền trời
Có tráng
trí, nhưng lúc mới dựng nghiệp vẫn theo người, như quẻ Hàm hào cửu tam (đã định)
Nay một
tay mặc sức tung hoành, quyền uy như thần gió
Phía bắc,
bọn giặc giã như hùm beo đã dẹp yên
Vùng biển
phía đông, khói chiến tranh đã tắt
Muôn thuở
trời Nam, non sông bền vững
Bây giờ
chính là lúc giảm việc võ, tu sửa việc văn.
Vào năm 1729 chúa An Đô Vương Trịnh Cương cũng đem quân
đi tuần qua đây. Ông cho đóng quân dưới chân núi Truyền Đăng. Đọc thấy bài
thơ của vua Lê Thánh Tông, chúa Trịnh bèn họa lại bằng một bài thất ngôn bát
cú. Bản dịch của Hà Minh:
Biển rộng
mênh mang, nước dâng đầy
Núi chìm
xuống nước, nước tràn mây
Bàn tay
tạo hóa sao khéo dựng
Cảnh đẹp
thần tiên một chốn này.
Mùi tanh
giặc thác còn đâu đó
Cỏ hoa
sương khói vẫn còn đây
Ba quân
tướng sĩ đều vui vẻ
Bữa tiệc
biển khơi chén rượu đầy.”
(https://vi.wikipedia.org/wiki/)
Ánh đèn Laser (Light
Amplification by Stimulated Emission of Radiation) từ khu đô thị và vui chơi
giải trí Tuần Châu quét tia sáng vòng cung trên nền trời xanh thẳm, khu du lịch
Bãi Cháy cũng là nơi lưu trú và dịch vụ tàu thuyền tham quan vịnh Hạ Long sáng
rực một góc trời, những con đường dốc quanh co ven đồi bạt ngàn phi lao vi vu
trong gió dọc theo bờ biển trông ra vịnh Hạ Long, tưởng chừng như cả Đà Lạt và
Nha Trang được thu nhỏ ở nơi này. Bãi Cháy còn có tên cổ gọi là Vạ Cháy.
Chuyện kể rằng: Bãi Cháy là nơi đoàn
thuyền lương của quân Nguyên Mông do Trương Văn Hổ cầm đầu vào
xâm lược nước ta đã bị Trần Khánh Dư cùng quân dân nhà Trần
thiêu cháy và bị dạt vào bờ. Do nhiều thuyền giặc bị cháy, gió mùa Đông
Bắc lại thổi tạt lửa vào bờ phía tây Cửa Lục làm cháy luôn khu rừng
đang hanh khô. Chính vì vậy mà khu rừng bị cháy đó có tên Bãi Cháy.
Những ngày cuối đông gió hắt từng cơn rét
buốt thịt da, khu du lịch Bãi Cháy đã vắng thưa người không còn cảnh nhộn nhịp
dập dìu tài tử giai nhân như những ngày xuân hè vui nhộn. Chuyến phà đêm lặng
lẽ băng qua sông Cửa Lục thông ra vịnh Hạ Long đưa tôi về bến Hòn Gai.
Năm 1883, Pháp chiếm vịnh Hạ Long, có
thể các đảo ở đây có nhiều cây gai nên người Pháp gọi là lle des brouilles,
phiên âm là Hon Gai hay Hon Gay, sau đổi thành Hòn Gai. Hòn Gai ngày xưa
thuộc tỉnh Quảng Yên. Sau hiệp định Genève, thị xã Hồng
Gai – nay là thành phố Hạ Long là thủ phủ của khu Hồng Quảng.
Tôi sực nhớ đến Bạch Vân, không biết cuối
năm em có về không? Lời bài ca vọng cổ vang lên quen thuộc, tôi cảm thấy ấm
lòng:
-
Gần Tết rồi, em định khi nào về?
-
Không anh ạ, em đã nghỉ việc ở “Rose Massage –
Xông Hơi”
rồi, có dịp em mời anh đến thăm
cơ ngơi của bọn em.
Tiếng gió rít kèm theo con sóng lớn vỗ vào
mạn phà tung bọt trắng xóa, giọng em xa vắng loãng trong cơn gió lạnh lùng se
thắt lòng tôi.
Tôi đi bộ dọc theo con đường mịt mù bụi
than, hàng cây bàng trơ trụi đứng im lìm trơ cành khô khốc trên lề đường từ bến
phà về trung tâm thành phố, đến quán café Eden, Bạch Vân đã hẹn chờ tôi. Những
căn nhà thấp thoáng ánh đèn ở lưng chừng đồi núi Ba Đèo hắt vào bóng đêm như
những vì sao le lói trong khung trời trong xanh hiếm hoi của tiết Đông chí.
Bạch Vân đã tươi tắn hơn ngày tôi gặp lần
đầu, chiếc khăn len màu tím nhạt vòng quanh cổ buông lơi, nàng nhỏ nhoi lọt
thỏm trong chiếc ghế bành.
-
Anh không biết đâu, bọn em đã sống
nhờ vào nhan sắc cùng
thân
xác của mình trong sự không chế bởi bọn “chăn dắt” với sự bóc lột và ma túy.
Xã hội thừa nhận một nhu cầu có thật hiển
nhiên, một nghề đã được tồn tại từ ngàn xưa đã bị bọn đạo đức “giả cầy” liệt vào hạng không ra gì!
Tôi cảm thấy hổ thẹn với lòng mình, Bạch
Vân thở dài:
-
Em chưa đủ lớn để cảm nhận hết nỗi
bi ai nhưng em rất yêu
cuộc
đời này anh ạ! Chúng ta hàn huyên chỉ nhắc chuyện ngày xưa, tại sao những gì
ngày xưa cũng tốt đẹp hở anh? Truyền thống đạo đức Á Đông đã lụi tàn dần theo
ánh sáng phù hoa, sự im lặng với cái xấu là đồng lõa và thỏa hiệp...
Từng cơn sóng vỗ vào bờ kè ở Bến Đoan gợi
vào trong tôi nỗi buồn không tên họ. Trên chuyến xe tốc hành Hạ Long – Long
Biên, Hà Nội tôi mang theo cả nỗi niềm em.
Cuối đông, những chiếc lá bàng vàng úa bụi
than xỉn màu rơi tan tác trong cơn mưa bụi. Núi đồi Yên Tử mờ mịt trong mây,
lời bài kệ của Mãn Giác Thiền Sư vang vọng đâu đây:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Mùa xuân lại về, Bạch Vân hãy an nhiên và
em sẽ bình yên.
Bạng tên đầy đủ là Phan Thành Bạng, hồi nhỏ lêu lổng biếng học ham chơi,
trong lần tắm sông gặp hai Mân giỏi nghề câu tôm. Tướng hai Mân dị dạng nhưng
được khoa ăn nói, chứng nghiệm bằng hành động thực tế với những con tôm càng
xanh như hạt ngọc long lanh dưới ánh mặt trời. Bạng xin học bí kíp, bái hai Mân
làm sư phụ. Từ đó Bạng tâm phục khẩu phục, tự nguyện làm cảnh giới và bảo vệ an
toàn cho hai Mân. Bạng ngạc nhiên khi thấy ông thầy mình thiên biến vạn hóa,
xuất quỷ nhập thần hành tung vô định.
Thời thế đổi chủ thay ngôi, hai Mân ra làm quan to với triều Tây Sơn,
nhận Phan Thành Bạng làm nghĩa tử và đổi tên thành Phạm Trung Hiếu để phù hợp
với họ Phạm của hai Mân – Phạm Trung Mân.
Sự
dốt nát và dựa dẫm quyền thế khiến Phạm Trung Hiếu huênh hoang tự đắc, gây ra
nhiều điều tệ hại, dã man với bá tánh. Hắn ngang tàng hoang dâm vô đạo hơn Đặng
Mậu Lân, em trai Đặng Tuyên Phi của chúa Trịnh Sâm.
Phạm
Trung Hiếu cùng lũ tay chân ngưu đầu mã diện bày ra kế sách bóc lột tàn tệ dân
đen, đền đài miếu mạo càng tan hoang hơn khi đoàn quân của Phạm Trung Hiếu “bình định” các thành trì được chiếm giữ
từ quân Nguyễn Ánh.
Lòng
dân ta thán khôn nguôi, sự mất mát điêu tàn vì giao tranh không bằng sự cướp
bóc trắng trợn và ngang ngược của Phạm Trung Hiếu và đám tham quan ô lại, hay
tính bất nghì đã vận vào tên Phạm Trung Hiếu đã được cha nuôi quyền thế đặt
cho?
“Từ
năm 1795 nội bộ Tây Sơn xảy ra mâu thuẫn,Tư khấu Võ Văn Dũng giết thái sư Bùi
Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở trong khi Quang Toản bất lực không làm gì được.
Năm
1801, khi đại quân chúa Nguyễn rút về Gia Định, thành Bình Định được giao cho
Võ Tánh và Lễ bộ tham tri Ngô Tùng Châu trấn giữ. Quân Tây Sơn dưới quyền chỉ
huy của Thái phó Trần Quang Diệu và tướng Võ Văn Dũng đến bao vây. Trong thành
binh sĩ lâu ngày thiếu lương thực, có người khuyên Võ Tánh nên vượt vòng vây
trốn thoát, nhưng ông cương quyết ở lại. Sau đó, ông trao cho Trần Quang Diệu
một bức thư, xin tha chết cho quân sĩ trong thành. Ông sai thuộc hạ lấy rơm củi
chất dưới lầu Bát Giác, đổ thuốc súng vào, rồi châm ngòi tự vẫn. Tiếp theo, Ngô
Tùng Châu cũng dùng thuốc độc quyên sinh. Đó là ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu,
tức vào ngày 7 tháng 7 năm 1801”.(*)
Trước cái chết anh dũng của Võ Tánh, người dân Bình Định đã lưu truyền
câu hát:
Ngó lên ngọn tháp Cánh
Tiên
Cảm thương quan Hậu
thủ thiềng (thành) ba năm!
Vợ Võ Tánh là công
chúa Ngọc Du, khóc ông bằng bài thơ:
Những tưởng ra tay
giúp nước nhà
Ai dè bình địa nổi
phong ba.
Xót người vị quốc liều
thân ngọc,
Khiến thiếp cô phòng ủ
mặt hoa.
Gối mộng mơ màng duyên
nợ cũ,
Đài mây xiêu lạc phách
hồn xa.
Lửa trung đốt đỏ gương
hào kiệt,
Nóng ruột thuyền quyên
giọt lệ sa
Sau khi thành Bình
Định thất thủ, Phạm Trung Hiếu cho triệu tập những người trước đây hợp tác với
chúa Nguyễn, ra sức o ép dọa nạt, vu khống rồi tịch thu gia sản, kẻ bị giết hại
thủ tiêu, kẻ bị đày lên mạn ngược. Mặc dù Trần Quang Diệu tỏ ra xúc động trước
sự trung dũng của Võ Tánh và Ngô Tùng Châu đã không cho giết hại hàng binh.
Phạm Trung Hiếu nâng
cằm Cẩm Tú - con quan Đốc học – Chánh ngũ phẩm Trương Nho Bảo:
-
Nàng là cành vàng lá ngọc, ta không
nỡ dập liễu vùi
hoa, nếu thuận lời theo ta về làm tì thiếp, ta tha…
Cẩm Tú quắc mắt, chỉ
tay vào mặt hắn:
-
Lũ chúng bay đê tiện còn hơn thảo
khấu. Cụ nội ta
làTrương Văn Hiến đã từng khuyên chúa các ngươi:“Tây khởi nghĩa, Bắc thu công”. Đại
nghiệp chưa thành, lòng người chưa định, can qua máu ngập đầu rơi, dân tình ly
tán vậy mà các ngươi không động lòng còn tha hồ vơ vét đến tận xương tủy. Cơ
nghiệp nhà Tây Sơn chỉ một sớm một chiều, ta thà chết nơi này. Nói xong nàng
cắn lưỡi tự sát.
Phạm Trung Hiếu giận dữ sai quân mang thây
Cẩm Tú ném xuống giếng, từ lòng giếng một luồng khói trắng như mây bay vút lên
trời, quan quân Tây Sơn hoảng kinh trố mắt nhìn, đất chung quanh giếng lún dần,
những tảng đá ong vun lên thành gò…
Phạm Trung Hiếu cấu
kết với Trương Nghị - tùy tướng của Trần Quang Diệu đem quân truy sát và bắt
quan binh nhà Nguyễn đang sa cơ thất thế làm lao dịch. Quan Đốc học Trương Nho
Bảo uất hận vì sự tàn độc của bè lũ man rợ Phạm – Trương và cái chết oan khốc
của con gái mình, không kể hiểm nguy quỳ trước lầu bát giác nay thành đống tro
tàn khấn nguyền trước anh linh hai vị anh hùng Võ, Ngô đã tuẩn tiết:
-
Trời không dung, đất không tha.
Chúng bay nhân danh
những người cùng khổ, lợi dụng cảnh nồi da xáo thịt Trịnh -
Nguyễn, khuấy động can qua gây ra bao cảnh đời lầm than cơ cực. Dung nạp thảo
khấu, trọng dụng kẻ cầm gươm bày trò lừa mị…
Ông chưa nói dứt lời,
Trương Nghị đã xỉa gươm vào cổ:
-
Ta cũng là môn sinh của ngươi, nhưng
nay thế cờ đã
khác, tình thầy trò không bằng đường công danh ta đang rộng
mở, ta chém đầu ngươi cho ngọt gọi là trả nợ ân sư.
Hắn vung gươm, đầu
Trương Nho Bảo đã lăn lông lốc, mái tóc chớm bạc của quan Đốc học xõa tung ra
cuộn tròn quanh vầng trán mênh mông, che khuất đôi mắt mở to căm uất. Hai hàm
răng còn kịp há ra để ngậm chặt vào bụi cỏ gú như ghìm lại bởi nhát gươm quá
hung bạo của Trương Nghị.
Không những Trương
Nghị là môn đồ của quan Đốc học mà còn là con cháu của dòng họ Trương, hắn gọi
Trương Nho Bảo là chú họ. Khi hay tin Trương Nghị chém chết quan Đốc học, thân
mẫu của hắn ngữa mặt lên trời kêu rú như người điên, quỳ lạy như tế sao trước
bàn thờ tiên tổ, nhận lỗi cho thằng con vô nghì rồi chạy ra bờ sông nhảy xuống
trầm mình.
Sau khi lục soát,
Trương Nghị cho quân phong tỏa dinh thự quan Đốc học. Lạ thay, ngoài những cuốn
sách Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi, Sơ học vấn tân, Minh đạo gia huấn,Minh
tâm bảo giám, các sách nghiên cứu kinh, truyện (Tứ thư, Ngũ kinh) và đặc biệt
các sách khảo cứu về sử ký, địa lý của Lê Quý Đôn như Toàn Việt Thi Lục, Đại
Việt thông sử , Quốc triều tục biên, Bắc sứ thông lục, Phủ biên tạp lục, Kiến
văn tiểu lục…và của các học giả khác, gia sản quan Đốc học không có gì đáng
giá, hắn tức giận sai quân đốt sạch. Các miếu mạo, đền thờ, lăng tẩm bị phá tan
hoang.
Bọn Phạm Trung Hiếu
và Trương Nghị hung hăng tàn bạo, lũ quan quân dưới quyền chúng tha hồ vơ vét,
dân tình đói khổ một cổ hai tròng cam chịu cảnh màn trời chiếu đất, tang
thương. Người dân vùng Thuận - Quảng trông ngóng mong chờ quân của chúa Nguyễn
từ Gia Định tiến ra tiêu diệt Tây Sơn:“Lạy
trời cho cả gió nồm, Để cho chúa Nguyễn kéo buồm thẳng ra”...
Triều Tây Sơn kể từ
vua Thái Đức Nguyễn Nhạc đến hết Cảnh Thịnh tồn tại được 24 nǎm (1778-1802).
Những người dân đã một thời dâng hết gia sản kể cả thân mình cho Tây Sơn cảm
thấy mình vừa thoát khỏi cơn mê, lòng uất hận như sóng triều dâng. Bọn Phạm Trung
Hiếu và Trương Nghị run như cầy sấy, quỳ gối hèn hạ van xin. Sau khi tài sản bị
tịch thu sung công và bị xử lăng trì, chúng không còn cơ hội để ăn năn và khi
hiểu được tất cả là phù du đã quá muộn màng.
“Vua Gia Long đã
thống nhất sơn hà, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài gần 300 năm. Trận đánh
cuối cùng của vua Gia Long và tàn quân Tây Sơn tại đảo Giang Bình thuộc tỉnh
Quảng Tây, Trung Quốc tháng 7/1802. Quân chúa Nguyễn đã chém đầu Đại Tư Mã
Trịnh Thất -Thủ lĩnh hải tặc Trung Hoa trong hàng ngũ Tây Sơn”.(*)
(*)Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét