CHƯƠNG II
THỜI QUÂN NGŨ
Đang học dở dang, trường bãi khóa, tôi về Đà Nẵng. Đêm
lang thang với Nguyễn Văn Hồi (sau là khóa 23/HQNT). Gặp cảnh
sát dã chiến: “– Sinh viên hả? xúi giục tranh đấu hả? về quân trấn, a
lê lên xe!”. Gió sông Hàn mang theo đàn muỗi đói, Hồi cười cười:“đù
mọa…!”
Tôi hù anh Thùy:“Có bằng tú tài 2 là tài
nguyên sĩ quan, đi lính địa phương quân, bắt được thấy mẹ!” Hai anh em
vào phòng tuyển mộ Hải Quân, gọi là phòng chứ chỉ là trạm nhỏ bên sông Hàn, nộp
hồ sơ, “- Ngày mai đến!” Giọng anh Trung sĩ cộc lốc, dầu
gì mình cũng sẽ là Sĩ quan, thôi kệ.
Lên phà qua Tiên Sa, hành trang chỉ mấy bộ đồ, đêm
nằm nhớ cha nhớ mẹ nhớ em, trốn nhà đi lính, cha mẹ không biết gì mà cũng chẳng
hỏi tôi đi đâu. Hơn năm học ở Saigon, tôi đốt quá nhiều, hết mấy cây vàng của
cha mẹ, ngày về chỉ tặng ông già cái nón nỉ, mua ở chợ Bến Thành, đúng là đồ
phá của.
Tò te tí te! tạp dịch, tạp dịch! tôi hốt hoảng, cầm chổi quét lia lịa, lá dương liễu như cây kim luồn trong cát, “- Sinh viên sĩ quan cũng…quét !”
Lần đầu tiên lên tàu HQ 500 cùng anh Thùy và mười mấy đứa trạc tuổi, tôi mới biết chỉ hai anh em là tân binh…sinh viên sĩ quan, vẫn bộ đồ mặc từ ngày ra đi, ngóng nhìn về bên kia sông… hình bóng em Thái ngơ ngác mà lòng tê tái, hãy đợi ngày về. Sau mấy ngày đêm lênh đênh:”- Xếp hàng một, Bạch Đằng 2, bước!” Lãnh quân trang, cho đi “bờ”, tôi và anh Thùy không biết đi đâu… mình đã chán Saigon, không dám về nhà chú T. ở gần cầu Saigon, ấp Nhất Trí 3, Gò Vấp, Gia Định, nơi đã cho tôi nhiều kỷ niệm, nhưng bây giờ xa lắc…
Tôi thay bộ đồ xám xanh, chiếc nón kepi lạ lẫm, đôi giày cao cổ quá khổ. Rời Bạch Đằng 2, lên xe về hướng ngã ba Chuồng chó, Quang Trung. Thay bằng bộ đồ treilli, tập bắn, tập bò, tập chà láng giao thông hào, những ngày cuối tuần nhìn trộm “vườn tao ngộ” mà mình chẳng ngộ ai để mà tao!
Sau chín tuần Quang
Trung, ai giỏi Anh văn được học tiếp ở Saigon, du học OCS. Những ai đọc tiếng
Anh bằng giọng Pháp như tôi thì vào khóa 22 Nha Trang, anh Thùy sinh ngữ
chính là Pháp, chấm phết thế nào mà lại có điểm ECL cao, sau mấy tháng miệt mài
ở “boat school”, lại ra Nha Trang, Đệ nhị Bảo Bình! (Nguyễn Văn Thùy K23 – Đệ Nhị Bảo Bình)
Trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang
Trên boong Dương Vận
Hạm HQ501, gần 248 tân sinh viên sĩ quan vui vẻ kể nhau nghe đủ thứ chuyện trên
đời. Những hẹn hò nay chỉ còn là kỷ niệm. Cảnh trời nước mênh mông, kẻ đứng
người nằm mặt mũi bơ phờ, sau hai ngày đêm hải hành…
Bước ra khỏi cửa đổ bộ, vai mang sacmarine, khóa đàn anh – Khóa 21 - Đệ Nhị Nhân Mã – đã đứng chờ sẳn trên bãi cát. Những tiếng nghiêm, nghỉ dõng dạc, đàn anh thăm hỏi tận tình, rồi hàng hai tiến vào cổng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha trang…
Bỗng oang oang: “Quỳ
xuống! các anh nghe đây…nghe….đây!
“ Trước mặt các anh, là núi non hùng vĩ – Sau lưng các
anh là biển cả mênh mông – các anh hãy lấy biển cả làm nhà, trăng sao làm bạn,
lấy đèn hải hành làm đôi mắt người yêu…
Bằng cấp, địa vị của các anh, hãy bỏ
ngoài cổng quân trường…
Sau đây, các anh hãy chạy 22 vòng…quân
trường!”
Ngã nghiêng, mồ hôi nhễ nhại, ói mửa, rên la chen lẫn “kiêu hùng” . Nhiều anh xỉu lác đác, nằm
thẳng cẳng hơn say sóng. “- hèn nhát”
đàn anh quát to, nhìn đàn em như một bầy mèo đói, không giống ai!
Huấn nhục
Những cái tên "đao phủ thủ" bất kể ngày đêm, bắt thăng thiên độn thổ, trình diện xưng tên họ… đến bây giờ gần năm mươi năm sau, số quân đố ai quên được. Số quân 72A... trốn cha trốn mẹ đi lính, đàn anh quát tháo sao mà đúng quá,, tôi muốn thoát khỏi nơi này "- Hèn nhát! Hít đất! Thụt... dầu! Thăng thiên độn thổ!”
Cả khóa chạy như vịt xuống "Phạn
xá" tức nhà ăn, đàn anh hò hét, "- 72A... Thực đơn
hôm nay gồm có: Ruồi chiên bơ...bơ, thằn lằn rút xương...xương! " Gồng
mình, trố mắt nhìn bảng thực đơn ấp úng... ruồi...ruồi...! Chan cơm bằng nước
trà đá lùa nhanh như chết khát lâu ngày, nhìn quanh các bạn cũng chẳng khác
gì, "- Tiếp tục..." Tôi hoảng hồn lùa thêm chén
nữa...
Sĩ quan tiểu
đoàn trưởng, khuyên tôi học ngành chỉ huy, tôi không dám mơ làm hạm trưởng, để
suốt đời lênh đênh, không dám lấy đèn hải hành làm đôi mắt người yêu, đàn anh
than thở: "Ôi biển cả giờ đây ta mới biết, mộng hải hồ giết chết
cuộc đời ta! " Tôi xin học ngành cơ khí, sau này có cái nghề, nếu
một mai giã từ vũ khí!
Trung đội trưởng Hồ Quang Chánh mặt sắt
đen sì, giống Bao Thanh Thiên, chỉ khác nữa vầng trăng trên trán thay bằng đôi
kính cận thị gọng đen thui, trung đội của tôi sao lắm thằng cận thị!
Hồ Quang Chánh
Bùi Văn Dân ốm tong teo, quần kéo lên tới ngực,
lại mang cặp kính tròn vo (bây giờ Dân ở Pháp)
Bùi Văn Dân
Đinh Kim Bản hiền như con gái, dân xứ bưởi Biên
Hoà, học trường Ngô Quyền với Huỳnh Kim Thanh, tôi mến Bản, đi đâu cũng có
nhau, bida Thu ở đường Quang Trung, có em bé tạ rưởi mê mệt, Bản ngồi cười mím
chi. Năm 1973 tôi tháp tùng đi thanh
tra Duyên đoàn 41 – Poulo Obi - đảo Hòn khoai, gặp Đinh Kim Bản, hai
thằng nhậu với tiết canh, Bản ói mửa tùm lum, mấy thằng em polo Yabota chạy kêu
cấp cứu! (Bản bây giờ ở Đức). Giường sắt đôi, Bản trên tôi
dưới.
Đinh Kim Bản
Nguyễn Trung Hiếu quê ở Tân Châu hay cười.
Trần Minh Hiện cùng quê với Hiếu, rủ chung cặp giường, Hiện cũng ốm cao lêu
khêu, mặt xương hiền lành như quê Hồng Ngự của nó (từ ngày ra trường
không gặp lại Hiếu, Hiện, nghe nói năm 74 Hiếu đi tàu dầu HQ 473, Hiện ở
CCYT/TV Cát lở)
Cạnh cửa vào phòng là
Hoàng Thế Hải, Hải dân Bắc kỳ 54, tốt tính nên hoà đồng thân thiện với anh
chàng nông dân chất phác Võ Bằng Quang ghiền thuốc lá Cẩm Lệ hơn Ruby QTV. Vì
cái tên Quang có "g" lại thêm chữ lót là "bằng" đàn
anh nghĩ đến cái "bàng quang" nên quây tới tấp, nhìn mặt nó
quá "chịu đựng" đàn anh mất hứng nên thôi. Suốt khóa
kiêu hùng không đi bờ, không biết Nha Trang thơ mộng thế nào, áo quần tự
giặt… (sau này Quang về HĐ1ZP, Hải ở CCYT/TV Đà Nẵng, cùng với Ngô Văn
Minh, Nguyễn Gan, Võ Tư, Nguyễn Hữu Thiện, Trương Văn Chỉ, Huỳnh Công Tánh,
Trần Tiễn Gián, Trần Tấn, Quang trông lù khù mà có bằng cử nhân luật, bây giờ
ẩn cư như Robinson ở vùng xa xôi Duy xuyên, miệt biển Quảng Nam, Hải thì biệt
vô âm tín).
Võ Bằng Quang
Đỗ Kim Tính tròn như
ông Phật Di Lặc, những thằng mập thường vui vẻ, hay cười và tốt bụng. Hắn như
thằng em ...út trong Trung đội nên được TĐT cưng, mà anh em cũng mến, Tính quê
miền Tây, theo TĐT Chánh đen về Cà Mau rồi gá nghĩa tào khang trên miền sông
nước (Tôi nhớ khoảng năm 2003 bị bệnh tràn dịch màng phổi, thập tử nhất
sinh, Đỗ Kim Tính đã nhờ bạn là BS Hoa - BV Lao PNT SG - chăm sóc và trị bệnh
nên tôi mới sống đến bây giờ)
Đỗ Kim Tính (Mỹ)
Huỳnh Văn Hoàng (mất 2019 tại Long Xuyên) giọng trọ trẹ,
nhưng là dân Phan Thiết, nó có bí kíp của Dương Tiễn, bảy hai phép thần thông
biến hoá, Võ Bằng Quang hay la làng vì mất thuốc lá Ruby QTV! Nó lại có tài
trốn tập thể dục và Taekondo, không biết nó múa may ra sao mà võ sư Teikondo
Trung Uý Lee - Đại Hàn - cho nó đai xanh, thi ra trường ...đai trắng. (Hoàng
bây giờ ở Long Xuyên, cách đây mấy năm cùng về SG họp mặt, nó vui, nó nhậu quên
trời đất, tối ngủ lại nhà Phạm Hữu Phước - con chim sâu nhỏ - ở Tân Bình, đêm
thức giấc mót đái, nó tè luôn vô tủ áo quần nhà Phạm Hữu Phước, nó tưởng
toilet..).
Huỳnh Văn Hoàng (Đã mất 2019)
Đất mũi Cà Mau có lẽ hấp dẫn, nên cả 5 thằng
theo chân Hồ Quang Chánh về TDYT/CM: Bùi Văn Dân, Huỳnh văn Hoàng, Đỗ Kim Tính
lại kéo theo Tống Anh Minh, Trần Ngọc Bích!
Nguyễn Văn Thiệu nằm cuối phòng với Nguyễn
Văn Ty, Thiệu là dân Trảng Bàng - Tây Ninh, ít nói, hai hàm răng nhai qua nhai
lại, hay uống trộm sữa Con Chim QTV của Võ Bằng Quang,
Nguyễn Văn Thiệu (Úc)
Nguyễn Văn Ty dân Huế, lớn tuổi bằng Võ Bằng Quang
nên có vẻ chửng chạc (năm 2010 Tôi và Nguyễn Đình Vĩnh về Huế có gặp
Ty, nhà Ty cách Huế hơn 30 cây số, làm ruộng)
Nguyễn Văn Ty
Nguyễn Thượng Gia không biết có bà con chi với Trung đội trưởng Hồ Quang Chánh mà hay cặp kè, đi đâu cũng đi chung, nhưng rất dễ thương, chan hoà đồng đội.
Nguyễn Thượng Gia (Mỹ - Mất 8.2021))
Anh Tạ Trung Đoàn lớn nhất trung đội (58A),
ngày anh đi lính tôi còn là trẻ con, anh từ đoàn viên đi học sĩ quan, anh thân
ái nhưng ít gần gủi lại thêm niên trưởng Nguyễn Kim Đạo (K18) về học lại, trầm
ngâm, sinh hoạt lẽ loi…
Trung đội có tay guitar tài hoa Lai Văn Hảo,
cũng cận thị, thằng nào cận thị cũng hiền. Đêm văn nghệ đàn anh Đệ nhị Nhân Mã
ra khơi, Hảo chơi solo hay ác liệt, (năm 1974 tôi chuyển về BTL/V5ZH
gặp Lai Văn Hảo ở TDYT/ Năm Căn, gần ba mươi năm sau, nhờ Phạm Hữu Phước đưa
qua thăm nhà Lai Văn Hảo trên đường Nguyễn Văn Quá, Gò Vấp nay ở Mỹ)
Nằm tầng trên giường Hảo là Trần Trịnh Minh, nhưng Minh thuộc TĐ5 bảng đỏ (TĐT Nguyễn Thanh), ra trường Minh về CCYT/TV/Cam Ranh cùng Lê Văn Út, Tống Phước Hòa, Nguyễn Ngọc Sơn.
Trần Trịnh Minh (Lâm Đồng)
Đi bờ, ham chơi về trể,
TĐT Hồ Quang Chánh bao che đàn em, báo cáo láo, báo cáo đủ! Phùng Hữu
Nghĩa như Tây đen Hynos, nhưng rất hiền (năm 2009, đi ngang qua Huế,
tôi hỏi thăm nhà Nghĩa, gần cầu An Cựu, căn nhà vẫn còn mái tranh thấp lè tè,
mái bếp lợp…nylon! tôi thông báo cảnh nghèo của Nghĩa, Đệ Nhị Nam Dương khắp
nơi gửi tiền về tương trợ, bây giờ ổn rồi, nhưng vợ lại bệnh triền miên… Khi
viết những dòng này Nghĩa bị tai biến nặng- 6.2021.) Nghĩa cùng quê
với Nguyễn Văn Ty, Lê Văn Út, Hồ Đình Hoát, Nguyễn Đình Vĩnh, Trương Công Ân…
Phùng Hữu Nghĩa (Mất 8.2021)
Đồng Thắng quê Quảng Ngãi, ít giao tiếp với ai, ra trường về Qui Nhơn, nhưng khác đơn vị. Thắng ở TDYT/Qui Nhơn cùng Nguyễn Trọng Hùng, Liễu Thiên Trường, Phan Công Minh (Đồng Thắng đã mất 2017))
Đồng Thắng
Tà tà ra quan là Lê
Văn Út, điểm danh thường hay trốn trong toillet, cả tuần không thấy tắm, ngoại
trừ lúc sắp đi bờ, nhưng dễ thương vô cùng bằng giọng Huế êm như nhung (Út
– Canada, nay đã mất). Lê Văn Út cùng giường Trương Công Ân, đồng hương xứ
Huế, nhà Ân gần cầu Gia Hội, chợ Đông Ba, Ân lặng thầm mà nghệ sĩ (Bây
giờ là Mục sư Trương Công Ân, nhà thờ Tin Lành Phú Nhuận…)
Trương Công Ân
Bạch Minh Đoàn vui tính, công tử họ Bạch trắng trẻo. Không biết Nguyễn Mậu Lâng có bà con với nhà văn Sơn Nam không mà giống quá trời! Thật thà, thường bị Nguyễn Văn Thiệu gọi là ông già đau khổ miền Tây Nam bộ (khoảng năm năm trở lại đây, mới khám phá ra ông già Nam bộ còn ở An Giang, nay đã mất 2018)
Nguyễn Mậu Lâng
Thái Văn Sáng đúng là sáng nước, hay cười, chăm học nên được chọn đơn vị ngon lành, hay rù rì với Tạ Trung Đoàn (không biết bây giờ phương nao…?)
Sau
sáu tháng làm đàn em, cả khóa mang alpha-omega (alpha Chuẩn úy),
được đi phép về Đà Nẵng. Về nhà, không biết cha mẹ nghĩ gì, dầu sao cũng không
dễ chết như bộ binh. Thái đi học về, nhìn nhau tràn ngập yêu thương. Cà-phê
Chiều Tím, rừng Nam ô… rủ rê em trốn học, đưa đón nhau về …
Ngày ra trường (11/9/1971), háo hức về thăm nhà với tâm trạng buồn vui lẫn lộn…
Về Thành phố một lần xa thành phố
Tìm
hoàng hôn trong đáy mắt người yêu
Tôi
bỗng dưng ghê sợ những buổi chiều
Miền
âm hưởng tình yêu khô đọng hẳn...
Lễ Mãn khóa
Sau những ngày nghỉ phép, lên xe đò tân
đáo Hải đội 2 duyên phòng, thành phố Qui Nhơn nắng và bụi. Tôi hỏi đường, lên
xe lam xuống bến phà qua Hải Minh Những tà áo trắng nữ sinh trường Trinh Vương
phất phới bay theo nắng chiều…
Chiếc LCM sắp ủi bãi, những chiếc nón polo
trắng tinh thấp thoáng, tôi đang ngơ ngác tìm có khuôn mặt nào quen, giật mình
đưa tay chào theo phản xạ ông trung tá ngồi trên xe jeep cần câu. Những khuôn
mặt lướt đi, xuống phà tâm hồn trống rỗng, tìm về BCH/HĐ2ZP. Ông Thượng sĩ quản
nội trưởng chỉ đường lên barrack ngủ nhờ…
Tôi trình diện, Chỉ huy trưởng HĐ2ZP, HQ Trung Tá Nguyễn Văn Pháp có hàng ria điệu nghệ, nhìn lom lom: “- Cơ khí hả? Phụ tá cho Thiếu Úy Tuấn kiêm sĩ quan ẩm thực! “ Tôi tìm niên trưởng Hoàng Trọng Tuấn (K21/SQNT-Tuấn “cà”) trưởng ban kỹ thuật:“- Chớ chớ anh t..ìm tô…i có …có chuyện g…ì? – Dạ, trinh diện!“ Tôi theo niên trưởng Tuấn xuống cầu tàu, lên PCF, mở hầm máy, nhận bài hướng dẫn đầu tiên:“- Đây là…là…lượ…c dầu sơ… sơ ….cấp, đ…ây là cái…cái in…jec…tor”, anh có …có…biết không?”Mấy cái vụ này tôi quá rành, cái lược dầu thứ cấp mà niên trưởng nói là in…jec…tor, mình không dám cải! Tôi nhớ thuộc làu: “Thi hành trước, kh…iếu nại sau!” Chưa hết giờ, niên trưởng Tuấn …dọt theo skimmer của EOD qua Qui Nhơn! Tôi không biết làm gì cứ mò mò mẩm mẩm, may có Trung Sĩ CK Cần, nhưng không lẽ hỏi TS Cần cái…cái…injector ở đâu?
Phan Như Lê
Cùng đơn vị có Phan Như Lê, Nguyễn Văn Vy, Nguyễn Văn Hiếu, Vương Đình Ánh, tụi chỉ huy sáng nước nên xuống PCF làm thuyền phó cho đàn anh, sau này có Phạm Hữu Phước – thực tập đệ thất hạm đội – về HQ 3860.
Vương Đình Ánh
Mùa đông Quy Nhơn mưa tầm tả, bão tố biển động ầm
ầm, nhưng PCF lãnh dầu đều đều, bán hết rồi …neo, trời này không tuần bó phép.
Tôi ở chung phòng với Tuấn…”cà”, gạo sấy, thịt hộp là…chính, năm ngày đầu tháng
đã hết tiền lương, có đồng nào là cà phê Dung, nhạc Trịnh buồn vương theo
khói thuốc…
Câu lạc bộ HĐ2ZP được chuyển giao từ club của các cố vấn Mỹ, vợ chồng
HQ/Trung Úy Phước (K19/HQNT) là chủ nhân. Ngoài những đêm lang thang với Tuấn
“cà” trên đường Võ Tánh, các snack-bar ngập ngụa khói thuốc mờ ảo bóng liêu
trai… Tôi mãi mê bên bàn bi da câu lạc bộ, những cú ba band ngoạn mục, cú
depart mướt như nhung lôi cuốn quên đường về, độ nhau bằng gói thuốc, cà phê.
Phạm Hữu Phước, thuyền trưởng PCF HQ 3860 – cùng khóa - hào hoa phong nhã, có đường cơ lã lướt, lần
nào tôi cũng thua độ.
Qui Nhơn mờ mịt trong mưa, những chuyến hải hành tuần duyên u ám, đêm
đêm nghe lựu đạn uỳnh uỳnh phòng thủ căn cứ vang vọng. Tuấn “cà” bật dậy: “- Mẹ …nó, bây gi…ờ mà còn…còn xập xình,
tao…dẹp!” Tuấn lấy quả MK3 rút chốt, tôi hoảng hồn chạy theo. Bên kia
barack, dãy phòng của Trọng, Huệ đen (K20/HQNT) Nhung OCS đang tập khiêu vũ với
tiếng nhạc từ cassette mở hết cở. “-
Tụi…tụi mầy có…có im đi…đi không?” Tuấn “cà” vừa nói vừa ló quả lựu đạn,
khỏi nói cũng biết là …im. Nghe ồn ào,
Đại Úy Bích (K16/CHP – CHP/HĐ) mở cửa, nhìn trên tay Tuấn cà có thứ dữ,“-
Thôi, đem cất đi Tuấn!”,“- Nhưng…như…ng cái...cái chốt không…không biết…biết
ở…đâu!“ Tôi kéo Tuấn cà xuống cầu
tàu….
Những đêm thứ bảy, lệnh cắm trại chỉ dành cho… sĩ quan thôi, nhưng được
mời các em bên Qui Nhơn sang dự tiệc. Ông Chỉ Huy Trưởng chịu chơi, có hàng ria
mép mở đàu party bằng điệu pasodop lã lướt.
Gặp Huỳnh Ngọc Lộc ở TDYT/ Qui Nhơn, hai thằng thuê nhà bên phố, sáng đi tối về, kéo theo Hiền thủy thủ, một phòng trọ, một thằng sĩ quan, một trung sĩ, một thằng lính. Lộc mê “Jackson Five”, để râu kiểu Clark Gable.
Huỳnh
Ngọc Lộc Nguyễn Văn Hiền
Ngày ra đơn vị, tôi
mới hơn hai mươi hai tuổi đầu. Say mê kỹ thuật, tuổi thanh niên nhìn đời, hiểu
đời sao quá thơ ngây! Chiến tranh mỗi ngày một ác liệt, anh em, bạn bè mỗi
người mỗi hướng.
Tháng
2/72 lần đi phép đầu tiên, từ ngày ra đơn vị. Lên xe đò về Đà Nẵng, cha mẹ chật
vật với cuộc sống ngày càng khó khăn, các em còn thơ dại…Tình yêu đầu đời, mong
sớm kết đôi. Cha nhìn thằng con an lòng hơn, con đã trưởng thành, Lũy học chưa
về, Ngọc mừng rỡ tung tăng, nhưng mẹ đi làm. Nhìn sang nhà Thái, ngại ngùng. Chờ em, con hẻm nhỏ thân thương,
rộn rã tiếng chào hỏi, tò mò, cầu vai mang cặp lon thiếu úy và bộ đồ xanh tím
lạ lẫm. Em như bóng thiên nga lướt nhanh, chớp mắt, ngạc nhiên, rồi chạy ù vào
nhà mất hút. Tôi sang nhà, mẹ Thái đang đánh tứ sắc với bà sáu Xảo, ông Thanh…
nhìn nhau, chẳng nói được gì.
Tôi xin phép cho em đi chơi, “ – Không “ và cũng không thân
thiện như xưa! Từ khi biết chuyện yêu đương của tôi và Thái - anh Túc là chứng
nhân đầu tiên của mối tình thơ dại này.
Những lời bàn ra, tán vào bất lợi của họ hàng đã gây hiềm khích giữa cha
mẹ hai bên! “ – Bây giờ, mới tí tuổi đầu đã cận thị, sau này…đui luôn!”
“ – Không có mầy, hết anh này anh khác…” “ - Không hợp tuổi đâu con! “ “ – Chỉ
hợp nhãn thôi…”
Vô tình hay cố ý, tiếng nhạc bên nhà em vang vọng, xót xa…
Không cho phép thì đành trốn học đi chơi, tôi đưa em vào cà phê Thạch Thảo,
Chiều Tím, em ngại ngùng nhìn quanh, sợ gặp người quen, rừng thông Nam Ô, bãi
biển Mỹ Khê…
…
Mỹ Khê
này em - tôi yêu em
Cát trắng hồn nhiên
sóng dịu hiền
Ta - cố nhân chừ như khách
lạ
Một đời phiêu bạt với truân
chuyên
Lại một Xuân về - em có hay
Nam Ô này em - rừng dương say
Vi vu thổi mất tình
trong mắt
Đà Nẵng này em - mưa bụi bay
…….
Bao nhiêu lời xì xào như kim
đâm, tôi lại liên tưởng ngày về Saigon – khi còn SVSQ - tham dự diễn hành ngày
Quốc Khánh 19/6/1971. Nghe tin em theo chuyến bay cùng anh Vũ vào Saigon, thăm
nhà một anh không quân? Tôi đến cư xá Nông Lâm Súc, dò hỏi thăm qua anh Ngô Út
– anh Năm em Thái – “ – Anh Vũ ở lộ 20, đường Hựng Phú, Quận 8. Tôi vội vàng đi
tìm, trời đổ cơn mưa, đến nơi, nhưng Thái đã về Đà Nẵng…
Gần một tuần phép, em trốn học cả bảy ngày. Tôi hối
hả, muốn có nhau, chỉ một con đường, em đã khóc, em chưa tròn mười bảy…
“ – Ngày mai hết phép, yêu anh hãy theo anh, nếu
không, mình xa nhau mãi mãi…”. Bến xe Ngã Năm, ngóng
trông bóng dáng em nhỏ nhoi mà lòng như có lửa! Tôi không chắc sẽ cùng em, đầu
óc nghĩ ngợi mông lung… mừng rỡ và lo âu, em đã đến, vẫn chiếc cặp đi học,
không áo quần mang theo, chỉ có giấy màu để cắt những bông hoa…
Nhìn quanh, chiếc traction đen chờ khách, lên xe, bất ngờ gặp ông Có hàng xóm ngồi lù lù, mặc kệ, lỡ rồi! Đến Quảng Ngãi, xuống xe. Em như con chim non gặp mùa bão tố, co ro, giao phó cuộc đời trôi nổi. Tìm chú Mười Thi, cậu Nghĩa kể hết sự tình, các vị cho thêm ít tiền lộ phí, mua cho em bộ đồ mặc đi đường… Ngày mai đi tiếp Qui Nhơn.
HQ.Thiếu úy Vàng Huy Luyện (OCS) cho ở nhờ,
vì vợ Luyện về quê sinh em bé. Những ngày hạnh phúc đầu tiên, mê say quên trời
đất. Bỗng Huỳnh Ngọc Lộc mặt tái xanh thông báo: “- Ông già
Thái…” Tiếp theo sau là Ba Thái và anh Vũ! Ba nhìn quanh, không nói
gì, anh Vũ mặt lạnh như tiền, em nép bên mình ngơ ngác. Ba thẫn thờ rồi thong
thả:“- Thôi các con đừng về Đà Nẵng nữa! cứ vậy mà sống, có gì ăn không,
trưa rồi!” Tôi nhẹ người, em loay hoay dọn cơm, nhưng chỉ có hai cái
chén và hai đôi đủa! Anh Vũ hầm hầm kiên quyết bắt em vê, tôi nghĩ đến khẩu
P.38…
Mọi việc theo sự dàn xếp của chị Thanh – vợ anh
Thăng, gọi Ba bằng dượng – Phạm Hữu Phước bỏ công tác, đóng vai quân cảnh cùng
nhau về Đà Nẵng. Cha mẹ ngạc nhiên sao thằng con đi rồi lại về, theo sau lại có
ông quân cảnh hải quân! Tôi cúi gầm mặt, đầu óc rỗng tuyếch, nghe loáng thoáng
ông quân cảnh trình bày:“…dụ dỗ gái vị thành niên…. quân pháp… cách-xê
ga-lông… bộ binh…” Mặt cha tái dần, mình điếc đă không sợ súng!
Phạm Hữu Phước
Đám cưới vội vã diễn ra sau đó mấy ngày
(05/04/1972), hàng xóm xì xầm, nhưng không ai biết tôi đã dắt em ra đi…
Vào Qui Nhơn, Tôi và Phước trình diện Chỉ Huy Trưởng HQ.Trung tá Nguyễn Văn Pháp, phen này Phạm Hữu Phước lãnh đủ vì tôi, nhưng CHT cảm thông vì bạn mà Phước dấn thân, có lẽ chưa thấy thằng nào, vì sợ mất người yêu, mà liều như HQ Thiếu úy Nguyễn Văn Châu, may không thằng nào bị ký củ (tù trong hồ sơ)!
HQ. Trung Tá Nguyễn Văn Pháp (2018)
Tôi sang lại căn nhà ở khu gia binh của Trung
úy Trần Châu, xin mẹ cái máy hát Akai mở quán cà phê kiêm quán nhậu, bia, nước
ngọt lấy của Đại úy Tích (CHP/HĐ2ZP) bán trước trả sau, lần hồi hết vốn. Thuê
con bé phục vụ, nó lấy hết tiền, Thái biết mà không dám nói! Bán luôn cái máy
hát trả nợ. Giai đoạn này có thắng lính nhậu say, phá quán, tôi bắn nó, may hắn
không chết, chỉ bị rách tai.
Những đêm khuya, tiếng pháo kích vào căn cứ ầm
ì, Thái chong đèn chờ, lấy giày ra đánh bóng, vì tôi còn mãi mê bi da trên câu
lạc bộ.
Nghe tin Thái bị bệnh, cha vào thăm, tôi mời cha vào tiệm, gọi con bồ câu hầm thuốc bắc, cha đứng lên đi thẳng…
Mùa hè năm 1972, đã để lại những đau thương, mất mát to lớn. Tôi bàng hoàng khi nghe tin cậu Nghĩa – Chi đoàn trưởng, chi đoàn ¼ chiến xa – đã mất tích tại chiến trường Quê Sơn! Đường bộ từ Qui Nhơn về Đà Nẵng không thể đi, tôi thuê ghe cùng Thái – đang mang bầu Khánh Phương – đi dọc theo bờ biển đến Quảng Ngãi, lên xe đò về Đà Nẵng.
Tôi cùng cậu Đa, dượng ba Hiền đi honda lên Quế Sơn, rừng lá thấp còn đang bốc mùi chiến trận, xác tử sĩ dọc ngang chiến hào, chiếc trực thăng tan tành cùng hai xác phi công, những tử thi cháy đen, chỉ còn hai thanh thép ba lô, trời mùa hè nóng như đỏ lửa, nên những chiến sĩ trận vong cả hai phía, khô đét đau thương. Mấy ngày sau, có anh lính truyền tin chi đoàn chạy về thông báo, anh nghe loáng thoáng:” – Bắt được Đại úy thiết giáp, có súng colt“
Cậu
Nghĩa có nhiều bạn là văn nghệ sĩ...
"..... Hà Nguyên Thạch là cựu học
sinh trường trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng cũng như Trương Duy Hy, Đynh
Hoàng Sa, Phan Nhật Nam, Vũ Ngự Chiêu, Lệ Hằng, Nguyễn Hưng
Quốc, Trần Gia Phụng, Huy Giang, Phan Duy Nhân, Lê Hân, Phạm Vũ Thịnh, Vương
Ngọc Long, Võ Ý, Vô Tình, Tôn Thất Phú Sĩ, Nguyễn Hữu Viện, Trương Đức Thủy,
Nguyễn Nam An, Thành Tôn, Nguyễn Nho Sa Mạc, Trần Vinh Anh, Nguyễn Đức Cung,
Thùy An, Lam Hồ, Hoàng Trọng Bân, Châu Văn Tùng, Lê Mạnh Trùy, Tô Yên,
Luân Hoán...và còn nhiều nữa, những người vui chơi trong thế giới văn học nghệ
thuật, mà tôi chưa biết hết, chưa kịp nhớ ra.
.........
Trích:http://www.luanhoan.net/tacpham/hoikyroi/HaNguyenThach/Ha_Nguyen_Thach.htm
Nhớ
lại với những ngày đầu tôi biết danh Đinh Cường, vào những năm đầu của thập
niên 60. Thời ấy Huế có nhiều người sinh hoạt văn học nghệ thuật, đang trên
đường lập danh. Tên tuổi những người đã vượt đèo Hải Vân vào đến Đà Nẵng của
chúng tôi có Ngô Kha, Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Lữ Quỳnh, Trần Quang
Long...nhiều nữa. Riêng Đinh Cường, anh đã tham dự một cuộc triển lãm chung,
trong đó có Hoàng Trọng Bân, Nguyên Hạo của Đà Nẵng. Phòng tranh này tôi được
hai bạn Lam Hồ và Tô Yên Lê Văn Nghĩa cho biết. Lúc đầu tôi dự
trù sẽ đi xem nhưng không hiểu sao, giờ chót tôi cùng Châu Văn Tùng vào Hội An.
Có thể tôi nhớ không chính xác về lần bày tranh này. Nhưng một cuộc triển lãm
khác của Đinh Cường tại Centre Culturel Francais de Danang, nằm ở
ngã tư hai đường Độc Lập và Thống Nhất, thì tôi vẫn chưa quên. Cuộc triển lãm
hình như được bảo trợ bởi Trung tâm Văn hóa Pháp.Trong buổi cắt băng khai mạc
tôi thấy có những viên chức người Pháp, nhà văn Duy Lam, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
và nhiều khuôn mặt trí thức khác.
Nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn đã gọi Đinh Cường là Thi sĩ của hoài niệm. Ông diễn đạt nhận
xét của mình:
... “Với
cái nền lãng mạn đầy tính chất thi ca, Đinh Cường đã say sưa ‘vọc’ sơn dầu và
nhồi nặn tâm hồn mình vào trong ấy. Thời gian ấy, tôi rất hiếm thấy những họa
sĩ trẻ sử dụng sơn dầu nhuần nhuyễn như Đinh Cường. Và đó cũng là giai đoạn của
những khỏa thân xanh (nu bleu) khỏa thân hồng (nu rose) phảng phất đường nét
của Modigliani, một trong những bậc thầy về chân dung mà anh rất ngưỡng mộ và
yêu mến...”
.................
Trích: http://www.luanhoan.net/tacpham/hoikyroi/DinhCuong.htm
Cũng
trong thập niên 60, khởi từ lực lượng học sinh, đã đẻ ra nhiếu bút nhóm, sinh
hoạt văn học khá khởi sắc . Ðáng kể nhất là nhóm "Cùng Ði Một Ðường" của
trường trung học Phan Chu Trinh. Nhóm này qui tụ :
·
Nguyễn
Hữu Nuối, bút hiệu Lam Hồ. tác phẩm: Tiếng Ðộng Trong Khu Phố Nhỏ
(truyện)
·
Phan
Chánh Dinh bút hiệu Phan Duy Nhân, Dương Phù Sao
·
Nguyễn
Ðăng Trừng, bút hiệu Huy Giang,
·
Lê
Văn Nghĩa, bút hiệu Tô Yên
·
Hồ
Cư không dùng bút hiệu.
·
Tôn
Thất Chân Tu, bút hiệu Chu Tân
·
Vương
Thanh: Khu Rừng Mùa Xuân, truyện Văn Học 1964
· ...
Trích
: http://www.luanhoan.net/danang/htm/danang06.htm
..............
Căn phòng thứ 2 của khu
Trùng Khánh như vậy vẫn có đến 3 nhân khẩu. Thật ra tôi và Vương Thanh đi đi về
về không nhất định giờ giấc. Dẫu vậy, tôi cũng không quên một thói quen dễ
thương được lặp lại mỗi ngày. Vào khoảng 4 giờ chiều hoặc sâu hơn chút đỉnh,
không có tiếng còi, nhưng đội ngũ của những người mê văn thơ, trình diện gần
đầy đủ trong một phòng nào đó, hoặc ngay trên hành lang hẹp của chung cư. Ngoài
những khách trọ của Trùng Khánh, nếu quan sát từ cửa sổ khách sạn Việt Nam, gần
như chiều nào cũng gặp được những nhân dạng: Lê Văn Nghĩa, đại úy Thiết
giáp, bạn học từ thời đệ ngũ với tôi ở Phan Châu Trinh Đà Nẵng, anh làm thơ
dưới bút hiệu Tô Yên. Khắc Minh, anh chàng binh nhì địa phương quân,
con của một đại phú gia của thị xã Quảng Ngãi, làm thơ khi đứng cai quản quán
sách Quang Trung trước trường Trần Quốc Tuấn. Phan Nhự Thức, thiếu úy Địa
phương quân, luôn luôn mang bên mình một cái cặp da nhẹ hều. Trần Thuật Ngữ,
thư sinh nhưng không đến trường vì ngại bị bắt quân dịch, làm thơ vững vàng.
Anh nhút nhát như con gái. Trần Anh Lan, trung úy Pháo binh, cười và uống nhiều
hơn nói. Phạm Cung, lầm lì, lừng khừng như những mẩu vẽ lập thể của anh. Logo
“con nai” tôi dùng cho nhà xuất bản Thơ, từ tay anh mà ra. Đynh Hoàng Sa, viết
truyện, dịch truyện, làm thơ, dạy học đề huề chừng mực. Những buổi tụ họp đông
vui như thế, thường thường để tường trình, thông tin đủ thứ chuyện trên đời. Dĩ
nhiên không thiếu rượu, bia. Chúng tôi học đòi cách uống rượu đổ ra thau, mạnh
ai nấy múc. Rượu tương đối xịn, thường do quan ba Nghĩa mang tới. Chuyện say
sưa cũng có nhưng rất hạn chế và đằm thắm. Duy có một lần tưởng đã nổ súng. Lần
đó một anh chàng ở khách sạn Việt Nam cao hứng thế nào, góp chuyện với chúng
tôi bằng một tàn thuốc từ trên lầu ném xuống. Cuộc vui bị xúc phạm, dù có thể
vô ý, tình cờ. Chúng tôi không bỏ qua. Đồng loạt ùa qua khách sạn Việt Nam, lên
lầu. Oái ăm thay, người hung hăng nhất là tôi. Với khẩu colt 45 có
đạn sẵn trong nòng, tôi lầm lì tiến như đang thanh toán mục tiêu. Rất may, hai
anh bạn có mặt trong phòng khách sạn hôm ấy kịp thời khôn khéo vờ ngủ say, nằm
im. Cơn giận của tôi như một quả bong bóng gặp gai đâm, xì xuống mau lẹ. Sự
nhũn nhặn biết người biết ta đúng lúc, nhiều khi là một vũ khí hữu hiệu để chế
ngự đối phương. Nếu chạm phải một đối thủ sừng sỏ, chắc ngón tay trên cò súng
của tôi khó giữ được bình tĩnh, hú hồn. Nghĩa đá một cái vào
đít anh chàng nằm trên sàn nhà và chúng tôi...rút quân. Về đến phòng tôi bắt
gặp Nghiêu Đề mặt xanh như tàu lá, anh ngồi sát vách phòng. Ú ớ một hồi anh mới
khuyên tôi đừng nên quá võ biền. Triết lý sống của anh rất đơn giản: chén kiểu
đừng nên chọi với chén đất, “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Ai là chén kiểu, ai
là chén đất ? Anh bạn họa sĩ của tôi đúng là một người lành. Ngoài tài hoa về
hội họa và văn thơ, anh còn là tay bông đùa duyên dáng vào bậc nhất trong hàng
ngũ văn nghệ sĩ miền Nam. Chuyện đùa chuyện thật với Nghiêu Đề luôn luôn lẫn
lộn. Anh dí dỏm lạc quan ngay cả khi tôi ngã ngựa sau này:
“Mày
giỏi lắm, mày chỉ dùng có bàn chân trái mà đá nát được kỷ luật giấy phép, để
muôn năm về với vợ con, võ công đó tao muốn học vô cùng...”
(trong 1 lá thư của Nghiêu Đề)
.................
Trích: http://www.luanhoan.net/tacpham/QuaKhuTruocMat/web/ThiXaQuangNgai.htm
............
Khởi
từ đầu thập niên sáu mươi, tại thành phố Đà Nẵng, lớp sinh hoạt thơ văn trung
niên và sắp về già như: Thái Can, Vũ Hân, Quốc Dân,Việt Trữ, Hồ Mộng Thiệp, Trần Gia Thoại, Tô Như,
Thanh Phương, Anh Đô, Hoàng Trọng Thược... hình như chỉ thu hẹp sinh hoạt trong địa bàn thành
phố. Cùng lúc đó, trong đám học sinh, nở rộ việc thành lập thi đàn,
bút nhóm. Có vóc dáng và nghiêm
chỉnh nhất trong những tập họp này là nhóm Cùng Đi Một Đường. Tôi
không rõ ai khởi xướng, ai giữ chân nhóm trưởng. Nhưng
thành viên của nhóm, hết thảy, với tôi, đều bạn thân tình : Phan Duy Nhân, Huy
Giang, Lam Hồ, Tô Yên, Hồ Cư. Trong năm tay viết, có đến ba nhân vật tập
tành... khuynh tả. Và cả năm đều có bài đăng khá đều đặn trên các
tuần báo, nguyệt san, tạp chí tại Sài Gòn.
Huy
Giang tên thật Nguyễn Đăng Trừng, hiện hành nghề luật tại Sài Gòn.
Lam
Hồ tên thật Nguyễn Hữu Nuối, viết mạnh và đều nhất thời bấy giờ, nhưng đã sớm
gác bút khi hành nghề dạy học, hiện vẫn ở Đà Nẵng.
Tô
Yên tên thật Lê Văn Nghĩa, trở thành thiếu tá binh chủng Thiết giáp VNCH, đã hy
sinh ở mặt trận Quế Sơn Quảng Nam năm 1972.
Hồ Cư dùng tên thật làm bút hiệu, đã biệt tích khá lâu trong những ngày anh lên rừng “làm cách mạng”.
...........
… Rồi em Lê Văn Vân, cũng tử trận ở mặt trận Duy Xuyên, khi mới ra trường sĩ quan Đồng Đế, mang lon chuẩn úy chưa đầy tháng, vì một viên đạn bắn sẻ vu vơ. Khắp xóm đồn đập tang ma của những thanh niên chưa tròn tuổi hai mươi…
Lê
Văn Vân
MÙA
HÈ ĐỎ LỬA 1972
Sau 4 tháng 16
ngày chiếm giữ Cổ Thành và thị xã Quảng Trị, QĐNDVN đã bị đánh bật và tổn thất
rất nặng. Riêng trung đoàn Triệu Hải (trung đoàn 27 QĐNDVN) với hơn 1.500 quân
cố thủ trong Cổ Thành đã bị thương vong gần như toàn bộ tại trận địa, chỉ còn
chưa đến 1 tiểu đội thoát ra ngoài. Chi tiết về trung đoàn này cũng đã được
phóng viên báo Tuổi Trẻ ghi lại theo lời kể của 1 cựu chiến binh (một trong gần 10
người sống sót của trung đoàn này) qua bài ký đăng trong số báo ra ngày 26
tháng 7/1998, có đoạn như sau:
"Tết năm 1968, ngay sau khi trung
đoàn được thành lập ở miền Bắc, một tháng sau trung đoàn này có mặt tại Quảng
Trị. Từ đấy cho đến năm 1972, Quảng Trị đã trở thành chiến trường của trung
đoàn 27, và ở đây, họ mang một cái tên mới: Trung đoàn Triệu Hải (tên của hai
huyện đồng bằng Quảng Trị ghép lại)... Phải đến bây giờ, chúng ta mới được nghe
cả một trung đoàn vào giữ Thành Cổ, lúc rút ra còn chưa đến một tiểu đội.[
Ngoài trung đoàn
Triệu Hải bị xóa sổ, trung đoàn 48 B thuộc sư đoàn 320B QĐNDVN - đơn vị chiếm
giữ trung tâm thị xã, cũng đã bị thiệt hại hơn 80% quân số. (QĐNDVN có 2 sư
đoàn cùng mang số 320, đó là sư đoàn 320 thuộc B-3 đã tham dự cuộc tổng tấn
công vào Kontum trong tháng 5/1972, và sư đoàn 320 B thống thuộc quyền chỉ huy
của bộ tư lệnh quân khu tại Trị Thiên). Trong một hồi ký phổ biến vào năm 1997,
Lê
Tự Đồng-trung tướng,
nguyên tư lệnh lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam tại mặt trận tỉnh Quảng Trị-cũng đã thừa nhận
là các sư đoàn và trung đoàn tham chiến đã bị tổn thất hơn 50% quân số.
Về phía QLVNCH,
tuy chiếm được thành cổ nhưng cũng phải trả giá đắt. Kế hoạch chiếm thị xã
trước ngày 13/7 để mặc cả tại Hội nghị Paris không thực hiện được mà còn phải mất gấp 5 lần thời
gian định trước. Để chiếm lại thành cổ, chỉ riêng sư đoàn Thủy quân Lục chiến
có 3.658 binh sĩ tử trận, chiếm 25% tổng quân số (tổng thương vong là hơn 5.000
chiếm 38% quân số), các đơn vị Dù cũng chịu thiệt hại nặng tương đương. Thiệt
hại lớn của các đơn vị tinh nhuệ này khiến QLVNCH cũng không đủ sức tấn công
tiếp lên phía bắc, các chiến dịch Lam Sơn 72A và các cuộc hành quân "Sóng
thần" để tái chiếm bờ bắc Thạch Hãn nhanh chóng bị QĐNDVN đánh bại. Hai
bên quay về giữ thế giằng co cho đến khi hiệp định Paris được ký kết vào tháng
1 năm 1973.
Sau 12 tuần lễ
liên tục tổng công kích với sự hỗ trợ hỏa lực tối đa của Hoa Kỳ, đến giữa đêm ngày
15 rạng ngày 16 tháng 9 năm 1972, lực lượng Thủy quân Lục chiến đã đánh bật
QĐNDVN ra khỏi trung tâm thị xã Quảng Trị và kiểm soát toàn bộ khu vực Cổ Thành. Rạng sáng
ngày 16 tháng 9 năm 1972, hai tiểu đoàn 3 và 6 Thủy quân Lục chiến từ các vị
trí vừa chiếm được trong Cổ Thành, đã bung ra lục soát và triệt hạ các chốt còn
lại của QĐNDVN. Đến 8 giờ sáng ngày 16 tháng 9 năm 1972, một toán Cọp Biển của
tiểu đoàn 6 Thủy quân Lục chiến đã dựng quốc
kỳ Việt Nam Cộng hòa
trên cổng tường phía Tây Cổ Thành Quảng Trị, biểu tượng cho thành công của Quân
lực VNCH trong cuộc tổng phản công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.
Vài phút sau đó, chuẩn tướng Bùi
Thế Lân - tư lệnh Sư đoàn
Thủy quân Lục chiến đã báo tin chiến thắng đến trung tướng Ngô Quang Trưởng. Vị tư lệnh Quân đoàn 1 kiêm tư lệnh chiến dịch tái chiếm Quảng Trị đã gọi máy về Sài Gòn để tường trình lên Tổng thống VNCH và đại tướng Tổng tham mưu trưởng, sau
đó tướng Ngô Quang Trưởng đã gửi bưu điệp tuyên dương công trạng Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến với nội dung như sau:
"Tôi đã nhìn Quốc kỳ tung bay trên
nền trời Quảng Trị chỉ ít lâu sau khi những bàn tay kiêu dũng của anh em kéo
lên từ trong Cổ Thành. Tôi đã muốn thấy tại chỗ chiến thắng của anh em, để ngay
tại chiến trường, tự cảm thấy hãnh diện được chỉ huy Sư đoàn Thủy quân Lục
chiến trong một chiến dịch quy mô nhất của quân đội...
Ghi lại cuộc chiến
đấu của sư đoàn Thủy quân Lục chiến tại mặt trận trung tâm thị xã Quảng Trị và
Cổ Thành từ khi thay thế lực lượng Nhảy Dù vào ngày 27/7/1972, trung tá Trần Văn Hiển, nguyên trưởng
phòng 3 bộ Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến đã viết như sau:
"Trong
suốt 7 tuần lễ chiến đấu đầy máu xương và nước mắt của chiến hữu đồng ngũ, dưới
những làn mưa đạn pháo nặng nề của đối phương, tính trung bình cứ 4 người lính
Thủy quân Lục chiến có 1 người hy sinh. Tính từ tháng 6 năm 1972 đến ngày toàn
thắng, về quân số, Thủy quân Lục chiến bị tổn thất trên 5 ngàn, trong đó có
3.658 chiến sĩ hy sinh... Hình ảnh người lính Thủy quân Lục chiến Việt Nam dựng
cờ, tuy vóc dáng gầy ốm bị chiến trận, nhưng chất chứa đầy lòng can đảm, cương
quyết và hy sinh… "
Theo
ghi nhận của trung tướng Ngô Quang Trưởng, trong 10 ngày cuối của trận chiến tại trung tâm thị xã Quảng Trị và Cổ Thành, có 2.767 lính QĐNDVN đã chết, 43 bị bắt
sống. Về phía Thủy quân Lục chiến, trung bình mỗi ngày có 150 binh sĩ Cọp Biển
chết trận, chưa tính các đơn vị khác. Chiều ngày 16 tháng 9 năm 1972, sau khi
đánh bật QĐNDVN ra khỏi trung tâm thị xã và tái chiếm toàn khu vực Cổ Thành, 6
tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đã bung rộng để triệt hạ các chốt kháng cự cuối
cùng trong Cổ Thành và nới rộng vùng kiểm soát.
Theo
cuốn Một thời hoa lửa của NXB
Trẻ thì từ mồng 10 tháng 9, Quân đội
Nhân dân Việt Nam bị thương vong nhiều. Như hai tiểu đoàn mới vào thành (Tiểu
đoàn 3 Trung đoàn 48, Tiểu đoàn địa phương 8) cũng đã tổn thất nặng. Riêng Tiểu
đoàn 4 Trung đoàn 95 từ khi vào thành đến khi rút ra (từ ngày 13 tháng 7 đến
ngày 10 tháng 9 năm 1972) đã chết trên 100 người, bị thương trên 700 (tính cả
số bổ sung từng ngày), đảng viên có 67 người, lúc ra còn 12 người v.v... Thật
là quá nặng nề đối với lực lượng phòng thủ thành cổ. Do đó hành động của tư
lệnh chiến dịch vào buổi giao ban sáng 16 tháng 9 và tiếp sau đó lệnh phòng ngự
tả ngạn sông Thạch Hãn vào chiều 16 tháng 9 là thích hợp với tình hình thực tế.
Cũng theo sách này thì:
"Các lực lượng trực
tiếp phòng thủ thị xã đã cùng một ý chí sắt đá là kiên quyết giữ vững Thành cổ
bằng mọi giá nhằm phục vụ yêu cầu đấu tranh ngoại giao ở Hội nghị Paris. Rất
nhiều gương chiến đấu, phục vụ chiến đấu vô cùng anh dũng của cán bộ chiến sĩ,
của các đoàn dân công hỏa tuyến, của nhân dân trong khu vực.
Trong hơn 80 ngày đêm chiến đấu, chúng
ta đã biết phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng bộ đội và nhân dân,
tạo nên sức chiến đấu kiên cường, dẻo dai. Bên cạnh lực lượng bám trụ thị xã,
phải tính đến sức mạnh của các sư đoàn chủ lực 308, 304, 320 đứng bên sườn địch
từ hướng đường 1 và hướng ven biển, mở nhiều đợt tiến công vào sườn đội hình
tiến công của địch; gây cho địch nhiều thiệt hại, làm chậm bước tiến của chúng,
buộc chúng phải đối phó bị động.
Ngoài ra phải nói đến nhiều đoàn tân
binh từ nhiều tỉnh miền Bắc đã lần lượt vào thị xã để bổ sung kịp thời cho các
đơn vị chiến đấu. Nhiều lực lượng dân quân du kích và nhân dân địa phương đã
đấu tranh kiên cường bằng nhiều hình thức phong phú đa dạng ở vùng địch hậu
Triệu Phong, Hải Lăng. Nhiều lực lượng dân công hỏa tuyến tại khu vực Tả Kiên,
Ba Gơ, Đại Ang, Tân Vinh đã tận tình phục vụ cho Quảng Trị chiến đấu."
Quảng Trị, người ta thường nhắc
tới bốn câu thơ trong bài Lời gọi bên sông của Lê Bá Dương, một cựu chiến binh Quân
đội Nhân dân Việt Nam
từng tham gia trận đánh này:
"Đò
xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ.
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Có tuổi hai mươi thành sóng nước.
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm"
(Nguồn: Wikipedia)
Tôi hạnh phúc biết bao, khi chờ đón đứa con đầu lòng, con sinh ra đời tại nhà
thương bà Quế, gần ngã ba Phan Chu Trinh – Trưng Nữ Vương, lúc 11g30 ngày
30/4/1973. Đặt tên Nguyễn Ngô Sa Huỳnh, vì mê cảnh đẹp của biển Sa Huỳnh -
Quảng Ngãi, nhưng cha đặt tên khác, vì Huỳnh trùng tên với người trong họ, đã
quá vãng. Vậy là Nguyễn Ngô Khánh Phương. Thái sinh khó, phải dùng máy hút, bác
sĩ phải hút máu bầm trên đầu con, hậu quả Khánh Phương bị đầu méo vì phải nằm
nghiêng.
Tháng 5/1973, con chưa đầy tháng, tôi thuyên chuyển về BTL/LLZP 213 ở Cam Ranh.
Hơn hai tháng sau, về Đà Nẵng đưa hai mẹ con theo vào. HQ.Thiếu úy Trương Vĩnh
Ninh (K23/HQNT) nhường chỗ ở tại khu gia binh CCYT/TV/Cam Ranh.
Chưa ấm chỗ, BTL/LLZP 213 giải tán, để thành lập BTL/V5ZH ở Năm Căn - Cà Mau.
Tôi lại đưa Thái và con theo xe đò về Saigon, ở tạm nhà má chị Mỹ, gần cầu Hiệp
Ân, Quận 8, chờ phương tiện xuống Năm Căn. Lênh đênh trên HQ404, mang theo
chiếc võng cho Thái và Khánh Phương, mới hơn hai tháng tuổi. Tàu vào sông Bồ
Đề, hai bên rừng đước, rừng tràm chạy dài hun hút. Thỉnh thoảng tiếng súng “tắc
cù” đuổi theo…
Tàu ủi bãi căn cứ Năm Căn, bồng bế con lên bờ, Thái say tàu, mặt mũi bơ phờ, nhưng Khánh Phương vẫn ngủ vùi. Tạm lấy trailler trong căn cứ làm tổ ấm. “ Muỗi kêu như sáo thổi “, Muỗi bám đầy mùng, nhìn trời không thấy trăng sao…!
Gia đình Khánh Phương
Lúc này tại căn cứ Năm Căn gồm: BCH/LL Đặc nhiệm 211.2, GĐ72,73 Thủy bộ, GĐ62TT, GĐ45NC, CCHQ/Năm Căn, TDYT/Năm Căn, HĐ5ZP. Số sĩ quan mới chuyển về, tạm thời làm việc trong mấy gian nhà tiền chế do Mỹ để lại.
Tôi phụ tá cho Đại Úy Trung, phòng Tiếp liệu. Cùng về Năm Căn có Phạm Hữu Phước (BTL/V5ZH), Nguyễn Văn Hiếu (GĐ45NC), Lai Văn Hảo (TDYT/Năm Căn), Hoàng Trọng Tuấn (K21 – GĐ73TB). Tôi sang lại tiệm sách truyện của Trung úy Cập, cho thuê. Việc cấp phát dầu cho PCF, các tàu Alpha, Tango, giang đoàn đã đem lại cho tôi nhiều “bổng lộc” bất ngờ. Thái nấu cơm tháng cho Phạm Hữu Phước, Trương Bá Côn (K19/HQ)… đến bây giờ, tiền cơm còn nợ!
Tôi đưa mẹ từ Đà Nẵng vào Saigon, rồi theo chuyến bay Caribou xuống Năm Căn. Thật hạnh phúc biết bao, khi có mẹ bên mình, có cơ hội phụng dưỡng. Tôi bao giờ cũng là trẻ con dưới mắt mẹ. Chỉ được vài tháng, mẹ đòi về Đà Nẵng vì lo cha không khỏe khi vắng mẹ. Cả cuộc đời, tôi chỉ có thời gian ngắn ngủi này được bên mẹ. Mỗi lần nghĩ lại, tôi ân hận.
Đời lính ở vùng Năm Căn ngắn ngủi và đầy bất trắc. “Hãy luôn chăm sóc cha mẹ mình, đừng chờ đợi đến khi gọi là có tiền. Dòng đời trôi đi theo năm tháng, nghĩ đến đền ơn sinh thành, có khi đã muộn rồi!”
Lúc này, TLP/V5ZH HQ.Trung Tá Mai Trọng Truật phát hiện ra chức vụ của tôi có thể làm ra tiền. Nhân chuyện cấp dầu cho Hoàng Trọng Tuấn “cà” (K21/HQNT) thử máy, tôi chỉ ghi số 50 gallons nhưng không viết chữ kèm theo, Tuấn thêm số “4” thành 450 gallons. Tôi bị kỷ luật, Tr. Tá Truật đẩy tôi đi học tiếp liệu ở Saigon. Thế là dắt díu vợ con về tá túc nhà anh chị Vũ, Mỹ ở phường Hưng Phú, Q.8. Bác Bốn cho chiếc xe Goebel cũ, sửa lại làm phương tiện.
Khoảng tháng 8/74 mãn khóa, về lại Năm Căn, tháng 10/74 tôi xin thuyên chuyển về CCYT/TV Đà Nẵng do Đại Tá Vương Hữu Thiều làm chỉ huy trưởng, mang theo thư giới thiệu của HQ Thiếu tá Phạm Thọ (K8/HQNT). Trình diện HQ Thiếu tá Huệ - Trưởng phòng Tiếp liệu – Đặng Văn Dư (K21/HQNT) nhường lại căn nhà ở khu gia binh Tiên Sa.
Mua lại xe Honda SS67 của cậu Bốn, cha mẹ mừng vô cùng. Trời mùa đông miền Trung, gió rít qua mái tole, lạnh buốt, tôi về Đà Nẵng, đón cha sang chơi, thấy “cơ ngơi” của thằng con thế này, cha cũng an lòng. Lúc 0g45 ngày 25/11/1974, Thục Nghi ra đời, tại nhà hộ sinh cô H, ngã tư Phan Chu Trinh – Lê Đình Dương, Đà Nẵng. Khoảng tháng 2/1975, tôi đi làm về, Thái ôm bụng kêu đau, tôi đi mời bác sĩ,. Bác sĩ K. đang đánh bida, qua lời mô tả, BS cho thuốc trụ sinh. Kết quả Thái hư thai! Thai khoảng hơn tháng. Cha đưa về chôn cạnh mả chị Ái, sau này thất lạc… không biết gái hay trai!
Thục Nghi 2020
GĐ Nguyễn Thị Thục Nghi
Lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm, tôi đón Tết Ất Mão (1975) cùng gia đình, cái Tết bình an cuối cùng, biển sóng lặng yên, chờ cơn bão tố…
Những ngày đầu năm 1975, chiến trường khắp nơi sôi động.
Ngày
10 tháng 3 năm 1975: Ban Mê Thuột di tản.
Ngày 16/3/1975, Pleiku, Komtum, Phú Bổn và các tỉnh Cao Nguyên trong giờ hấp hối, những con đường thoát chạy như QL7B,14,19,20,21… đông nghẹt người.
Ngày 18/3/1975, người dân Huế kéo vào Đà Nẵng để lánh nạn. Dòng người di tản chật cả đường phố, xe cộ dồn ứ đèo Hải Vân…
Ngày
26/3/1975, toàn bộ gần 500 cả lính và dân đã bị chìm tàu, bỏ mình tại bãi biển
An Dương.
Ngày 26/3/1975 Quảng Trị và Huế thất thủ.
Chiều 27/3/1975, dân Đà Nẵng di tản. Tại cảng Đà Nẵng, các thương thuyền Nam Quan, Trường Thành, VishipcoLine… chở dân tị nạn. Trưa 28/3/1975, tôi lái xe jeep từ Tiên Sa chạy về nhà trên đường Phan Chu Tinh. Lúc này, cầu Trịnh Minh Thế vẫn còn thưa người. Cha mẹ nhất quyết không đi, mẹ mếu máo kéo chiếc TV, mấy cái quạt máy... Tôi qua nhà ông bà ngoại các cháu, đưa cả nhà ra xe, nhưng ông ngoại ở lại, nhìn cha mẹ rơi nước mắt, tôi ấp úng không biết nói gì, kéo Lũy theo, về khu gia binh đón Thái và con. Giao nhà và tất cả đồ đạc cho em Ty – người giúp việc, em không đi – gởi gia đình cho các bạn cùng khóa trên HQ 504, lúc này đã hơn 19 giờ…
Tôi quay lại đơn vị, hôm nay tôi là sĩ quan trực. Đến hơn 22g, tôi chạy quanh căn cứ, bộ chỉ huy vắng ngắt… chạy xuống cầu tàu, quan lính lổn ngổn trên LCM, vẫn còn tiếc chiếc xe honda 67, nhưng đành bỏ lại, nhảy lên PCF của HĐ1ZP, chạy thẳng ra HQ 404. Gần đến Nha Trang, tất cả chuyển sang HQ 17, để HQ 404 quay lại Đà Nẵng…
Đến Cam Ranh, nhìn bãi biển tiêu điều, nghe nói HQ 504 cho dân di tản xuống Cam
Ranh, tôi phân vân không biết gia đình ở đâu? Tôi tháo lon lá, không mũ nón,
thuê xe ôm chạy khắp các khu tạm cư, khi về đến cổng Mỹ Ca, lại nghe thân nhân
hải quân được chở về Vũng Tàu. Trở lại bãi biển Cam Ranh, chỉ còn lác đác những
xác chết bơ vơ trên cát, HQ 17 đi mất, chỉ còn chiếc tàu Mỹ - Henry Miller, tôi
“xì xồ” với thủy thủ người Phi, may quá được cho lên tàu đi Phú Quốc.
Ngày 2 tháng 4 năm 1975, Nha Trang thất thủ.
Phú Quốc tràn đầy quân binh chủng và dân di tản khắp miền. Một số lính TQLC cướp của, giết người, bị xử bắn. Có lệnh tất cả quân nhân HQ phải về Saigon trình diện. Khoảng 20g ngày 10/4/1975, tôi đi nhờ chiếc xuồng cơ hữu của HQ 500 ra tàu, trên xuồng đã có HQ.Thiếu úy Lê Quang Lệ Lan (con gái cựu tư lệnh Lê Quang Mỹ), HQ.Trung úy Học cùng hai thủy thủ, chở theo ba tạ gạo, mấy thùng nước mắm. Không may, khi kéo xuồng lên bị đứt một đầu cáp, mọi người bị văng xuống biển. Biển tối om, sóng va đập thân tàu ầm ầm, xuồng treo lơ lửng, nửa chìm xuống nước, tôi cố tháo đôi giày cao cổ, trồi đầu lên bơi… Nhìn quanh, không thấy ai chỉ một màu đen kịt. Trên tàu la hét, nhiều chiếc phao ném xuống, 15 phút sau, tôi được thủy thủ PCF kéo lên, mọi người đang dõi tìm những người còn lại. Trên dây cáp móc vào phần lái chiếc xuồng, một thủy thủ đeo bám, tất cả được cứu, ngoại trừ HQ.Thiếu úy Lệ Lan! Đau đớn thay, khi kéo xuồng lên, xác Lan mới trôi ra, nhưng muộn mất rồi! Thiếu úy Lan đã bị bao gạo đè xuống mũi xuồng, ngập trong nước biển.
Ngày 15/4/1975 tàu cặp cảng Cát Lỡ - Vũng Tàu, tôi vội vã về Saigon. Không còn
gì vui hơn, khi thấy mọi người đã ở nhà anh chị Vũ, Mỹ. Lũy ở nhà Bác Bốn bên
chợ Bà Chiểu. Sáng hôm sau, vào BTL/HQ trình diện, rồi đem vợ con xuống Vũng
Tàu.
Căn
nhà khu gia binh ở Cát Lở trống hoác, tìm võng treo cho Thục Nghi. Lúc này, con
vừa tròn 4 tháng, Khánh Phương gần hai tuổi, không sữa, không cháo, không tiền.
Được mấy hôm, nhìn con không đành lòng. Ngày 26/4/1975, đi ngược dòng người về
Saigon, lại tá túc nhà chi Mỹ. Chị Mỹ mới sanh cháu Thắng, anh Vũ bị kẹt ở Đà
Nẵng, không biết thế nào!
Ngày 28/4/1975, trên đường ra Vũng Tàu, đến cầu Rạch Chiếc, xe cộ nghẽn đường,
quay lui Tân Cảng tìm phương tiện khác nhưng không có. Sáng 30/4/1975, tôi vào
BTL/HQ, cầu tàu vắng ngắt, còn trơ lại mấy con tàu hỏng, không thủy thủ, đang
lơ ngơ lại gặp Văn In (K21/HQNT), hai thằng rủ nhau chạy về Cát Lái. Đến 11g
hơn, nghe xôn xao Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, thế là hết!
Tôi
nhìn vợ con mà lòng tan nát, tương lai một màu đen… Sáng 01/5/1975, tôi ra
BTL/HQ trình diện và nộp giấy tờ, lại thấy Trung úy ĐV Long – Đại đội trưởng
SVSQ ở Nha Trang, đang ngồi ghi ghi, chép chép tên họ của quân nhân HQ bị kẹt
như tôi vào sổ. Nhận lại tờ giấy cỏn con, về nhà, chờ đợi ngày đi “học tập
cải tạo”.
Nhìn con thơ bé bỏng, không biết tính sao. Thục Nghi phải ăn bột Bích Chi, èo
uột khóc, Khánh Phương lẽo đẽo theo ba. Ba đã trắng tay, mờ mịt tương lai với
tuổi đời chưa đầy hai sáu. Bán chiếc đồng hồ Orient “hai cửa sổ” cho anh
bộ đội, cả chiếc TV cùng mấy chiếc quạt máy, cha mẹ cho khi di tản, với giá rẽ
mạt…
Tôi giữ con, Thái ra chợ xóm Củi, bán
bánh tráng nướng chuối, chiều về làm rơi hết tiền. Khoảng giữa tháng 5/1975 đưa
Lũy ra bến xe về Đà Nẵng. Trước ngày tập trung cải tạo, tôi gửi Thái và hai con
về nhờ cha mẹ ở Đà Nẵng (12/6/1975), không biết bao giờ gặp lại. Tôi thức trắng
đêm, nhìn con thơ say ngủ, nấu nước pha bột, cho vào từng túi nhỏ cho con ăn đi
đường. Lên bến xe Chợ Lớn, gặp Nguyễn Đình Trang – cùng khóa 22 – đang rao bán
mũ. Hai thằng nhìn nhau ứa nước mắt, xe chạy xa dần. Về lại căn nhà vắng, lòng
buồn mênh mông, tội nghiệp con tôi!
Thế là cách biệt nhau hơn chín trăm ngày.
TỔN THẤT NHÂN MẠNG TRONG
CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Miền
Bắc:
Theo tư liệu giải mã của Chính phủ Việt Nam năm 1995 cũng như sự xác nhận
của các viên chức chính phủ từng tham gia vào cuộc chiến. Trong một phim tài liệu trình chiếu trên kênh truyền
hình The History Channel, có
rất nhiều viên chức của Việt Nam trong các cuộc phỏng vấn đã xác nhận con số
gần đây từ tài liệu giải mã, và số chiến binh tử trận của Quân đội Nhân dân
Việt Nam (hay còn gọi là quân Giải phóng Miền Nam) vào khoảng 1,1 triệu, bao
gồm 300.000 mất tích. Cần lưu ý, số thiệt mạng không chỉ bao gồm số thiệt mạng
trong chiến đấu, mà còn bao gồm số thiệt mạng do bệnh tật, tai nạn, kiệt
sức..., và cũng không chỉ gồm lính chiến đấu mà còn gồm bộ phận không tham gia
chiến đấu như cán bộ dân chính, cơ sở chính trị ngầm, tổ chức dân vận...
Miền
Nam:
Con số 220.357 tử trận được Lewy dẫn từ tài liệu lưu
trữ của Bộ quốc phòng Mỹ, tính từ năm 1965 đến năm 1974. Cộng thêm con số tử
trận trong giai đoạn 1974-1975 và trước đó cho ra ước tính khoảng hơn 250.000
tử trận. Nhà sử học R.J. Rummel đưa ra con số ước tính cao nhất có thể lên tới
316.000 tử trận[6]
(Bách khoa toàn thư
Wikipedia)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét