CHƯƠNG III
TẬP TRUNG CẢI TẠO
Lệnh tập trung từ 13 đến 16/6/1975.
Ngày
11/6/1975, báo “Sài Gòn Giải Phóng” số 31, đăng thông cáo qui định tất
cả sĩ quan ngụy, phải trình diện đi “học tập cải tạo”. Bảng hướng dẫn
cho sĩ quan đi “tập trung cải tạo”, đăng trên báo, nguyên văn như sau:
“ Mỗi người đến địa điểm học tập cải tạo, phải mang theo:
- 1 tháng ăn bằng tiền, mỗi ngày
: 300đ x 30 ngày = 9.000 đ
- 1 ngày 0,7 kg gạo, mỗi ki lô
bằng : 220 đ x 21 kí = 4.600 đ
- Tổng cộng: 13.610 đồng
- Ngày tập trung đầu tiên, từng
người phải mang theo thực phẩm khô để ăn ngày hôm đó, ngày thứ hai nhà
thầu phục vụ cơm nước”
Hành trang thiên lý chỉ có hai bộ đồ và tấm chăn mỏng. Tôi tập trung tại đại
học xá Minh Mạng trên đường Trần Hoàng Quân – Quận 5. Nhìn quanh, tìm thân
quen, có người ngồi bó gối trầm tư, nhưng cũng có người xem như ở nhà, vô tư
cười đùa.
Khuya 16/6/1975, tôi đang lơ mơ, không
biết bây giờ gia đình ngoài quê, Thái và hai con ra sao? Bỗng nghe tiếng hô
vang: “Dậy, dậy…xếp hàng một, mang cả “tư trang”, xếp hang ba…”
Tôi không hiểu “tư
trang” là gì. Nhìn ra ngoài cổng, dưới ánh đèn vàng vọt, những chiếc
Molotova nối đuôi nhau, ba mươi người leo lên xe bít bùng, ngồi quay mặt ra
sau, hai anh bộ đội còn trẻ măng, cầm súng AK canh chừng.
Tập trung
Xe khởi hành, không gian chìm trong bóng tối, không biết về đâu? Gần
sáng, xe dừng, nghe tiếng anh bộ đội: “ –
Ai đi giải xuống xe!” Tôi không hiểu “đi giải” là đi đâu, nhưng mấy
người lục đục xuống xe đi đái, mình cũng xuống theo. Nhìn cánh đồng lúa xanh
mơn mởn, bầu trời trong veo trong sớm bình minh, mà lòng ngổn ngang trăm mối.
Lên xe, nhiều giọng thì thào:”vào rừng…”
Hơn mười giờ sáng xe dừng, tất cả nhảy xuống
xếp hàng. Anh bộ đội, có lẽ chỉ huy:“- Các anh nhanh chóng ổn định nơi ăn,
chốn ở. Đây là nơi các anh học tập…”
Những cái lô cốt đìu hiu, ngổn
ngang vỏ đạn, quân trang, quân dụng rách nát… cỏ mọc lút đầu, con đường nhựa
nham nhở! Anh bộ đội nhìn quanh, rồi chỉ định anh Mừng làm đội trưởng, anh Mừng – đại úy quân cảnh.
May sao, trong đội có Nguyễn Đắc Vinh cùng
khóa hải quân – bây giờ ở Úc, gặp lại Trương Vĩnh Ninh (K23/HQNT). Lần đầu tiên
nghe từ “biên chế”, tôi ở tổ 4, mỗi tổ 20 người, do anh Ngô Đa (bác sĩ) làm tổ trưởng. Thôi thì đủ ngành
nghề, kỹ sư, bác sĩ, nhảy dù, biệt động quân, bộ binh, không quân, hải quân,
giáo chức biệt phái, kiến trúc sư…
Trảng Lớn - Tây Ninh
Sau mấy ngày dọn dẹp, những số phận giống nhau, cũng đần dần thích nghi với môi
trường mới. Mỗi người được phát hai bộ treilli và một tấm vải rằn ri để đắp…
Đêm mùa hè nhưng lạnh lẽo trên tấm ri sắt. Mỹ không ngờ những tấm ri làm đường
băng dã chiến, bây giờ là giường cá nhân, cho những “chiến hữu” của
mình! Hằng ngày tập tành tăng gia sản xuất, những luống rau muống, tưới nước
tiểu xanh um.
Gần một tháng, kể từ ngày tập trung, tất cả xếp hàng, lên hội trường Trung đoàn (L1T2). Tôi thuộc đội 4 của đoàn 500, do Thiếu tướng Đào Sơn Tây làm tư lệnh. Căn cứ sư đoàn 25 BB là đây – Trảng Lớn, Tây Ninh, gần biên giới Campuchia - Anh chính ủy Tiểu doàn 2 - Năm Luân – hướng dẫn học bài đầu tiên:”Chủ trương của nhà Nước đối với sĩ quan, binh lính chế độ cũ “ Rồi về tổ, tự phê bình, thảo luận, liên hệ tội ác của bản thân…
Một chuyện khó quên, sau khi xem phim “Nguyễn Văn Trỗi” và “Ngày Lễ
Thánh”, cả đội ngồi sinh hoạt. Anh Đội trưởng Mừng yêu cầu ai có ý kiến gì,
xin mời phát biểu. Trung úy không quân Dương Hùng Cường – “Dê húc càng”, hăng hái:“- Tôi ở Biệt Đoàn Văn
Nghệ Trung Ương, tôi đã từng đóng phim, tôi chưa thấy phim nào mà tuyên truyền
dở như thế!“ Anh Mừng hoảng hốt, đề nghị dừng. Anh
Thuận – Trung úy bộ binh, đội phó – chữa cháy: “- Qua xem hai phim vừa rồi,
chúng ta mới thấy bộ mặt ác ôn côn đồ…cộng sản!”. Phát biểu xong, anh vênh váo nhìn mọi
người. Ý của Thuận là:“…ác ôn côn đồ Mỹ Ngụy!” nhưng quen mồm nói luôn một lèo, Thuận
vội vàng đính chính:-“ Tôi không
nói …thế! “ cả đội
cười nghiêng ngã, quên hết ưu tư.
Sau đó mấy ngày, Dương Hùng Cường cùng một số người khác chuyển trại, nghe nói
ra miền Bắc. Gần cuối năm 1975, mùa Noel lạnh thấu xương, những tiếng đàn
guitar tự chế, mang theo nỗi niềm u uẩn mênh mông. Hình bóng quê nhà, cha mẹ
già lam lũ, vợ con nheo nhóc, không tin tức gì, lòng tôi càng tái tê, buốt giá!
Từ nơi hoang tàn chiến địa, đã chớm màu xanh cây lá. Những buổi sáng, buổi tối, bên lon guigo “cà phê” cơm cháy và đường Tây Ninh, HQ. Thiếu úy Trương Vĩnh Ninh tài hoa mài mài, chế tác chiếc lược nhôm, nhặt từ phế liệu chiến tranh.
Trước tết
Bính Thìn (1976), Trung đoàn thông báo: Hòm thư 7590L1T2, nghĩa là trung đoàn
1, tiểu đoàn 2, để thân nhân gửi quà và thăm nuôi. Tôi bâng khuâng, không biết
gửi cho ai? Gửi về quê ư? Cha mẹ và vợ con nheo nhắt, không biết sống ra sao?
đường xa vời vợi, cuối cùng gửi về anh chị Vũ Mỹ ở Saigon. Ngày thăm nuôi đầu tiên, nhìn quanh
ai cũng có người thân, chỉ có tôi và những người đồng cảnh ngộ ngậm ngùi trong
trại, chẳng ai gọi tên…
Nhớ nhà, làm thơ:
CÁNH HẠC
Người đã đến
Không thư từ cánh hạc
Dấu giọt buồn
và chiều mưa vẫn bay...
Ôi nỗi nhớ là kim đâm giá buốt
Thịt da anh, người yêu hỡi có hay?
Xa lắm rồi
Kỷ niệm nào chợt đến
Đừng em ơi đừng phí một giây nào
Hãy để giận hờn - xin cho chắp cánh
Và chỉ còn hai đứa bên nhau
Là thời gian chắt chiu
Từ chín trăm ngày xa cách
Là sông Ngân cách mặt
Ôi tháng bảy mưa ngâu
Tìm đâu ô thước bắc cầu
Cho ta qua bến sông sâu tìm người?
Dù là chỉ một giây thôi
Em ơi sao chỉ là lời đớn đau...
Chiều buồn chiều anh bơ vơ
Chiều thương em nhớ chiều mơ anh về
Dấu xưa tìm cõi hôn mê
Hạc ơi ngơ ngác sơn khê hạc buồn
Xa em nhớ chết nỗi lòng
Mưa giăng khuất nẽo đường trông quê
nhà
Nhớ em và con xa xa
Nhớ như vô tận nhớ sa mặt trời
Nên chỉ còn là mưa rơi
Là giọt nước mắt nhớ người hạc ơi !
Phan
Nguyễn Châu Uyên
Trảng
Lớn – Tây Ninh
1976
Kỷ niệm cười ra nước mắt, anh T. (Dược sĩ) có mẹ lên thăm, cả tổ giúp anh thay
áo quần, mặc quần không đồ lót. Ngày chưa đi cải tạo thì gầy, bây giờ mập ra
do…phù thủng, chiếc quần tây bó chặc. Anh ngồi xuống bên mẹ, chiếc quần bung
chỉ, trơ cả đít! Mẹ ôm con khóc không thành tiếng. Tôi nhận được gói quà từ chị
Mỹ, mấy hủ tương chao và ít thuốc tây, chao ớt ăn cơm, sao mà ngon quá chừng…
Khoảng tháng 3/1976, tập họp, biên chế.
Người thì đoán đi Phú quốc, kẻ lạc quan có lẽ sắp được về, tất cả xếp hàng đi
bộ ra cổng Trảng Lớn. Sau gần một năm, mới thấy xóm làng. Vệ binh dặn dò:“- Các anh không được tiếp xúc với dân
chúng, người dân còn căm thù các anh, sẽ nguy hiểm cho các anh!” Ngang qua chợ Long Hoa, xin vệ binh
cho mua ít đường, người mua thuốc rê, thuốc lào, những tán đường vuông Tây Ninh
ngọt lịm, ngon chưa từng có. Điều lạ lùng, dân căm thù sĩ quan ngụy, nhưng
không tính tiền, mà còn cho thêm? Tôi chỉ còn 5 đồng (đã đổi tiền), mua
hai ký đường, vẫn còn nguyên. Đường thiên lý lầm lũi, trời nắng chan chan, qua
núi Bà Đen, vẫn còn đi mãi…
Đường xe be hun hút, lầy lội. Đến cái “trảng” rộng lớn, chung quanh rừng
vây quanh. Vệ binh hô lớn:”- Các
anh dừng lại, đây là nơi tăng gia, sản xuất!”. Mấy anh bộ binh nói đây là Đồng Ban,
gần Campuchia.
Đêm đầu tiên, túm hai đầu tấm vải đắp, treo lên cây làm võng, muỗi, vắt tìm hơi
người được bữa no nê trên những thân người thiếu máu.
Tôi và
Trương Vĩnh Ninh được phân công gánh lá. Nhìn răng cửa của Ninh trống hơ,không
nhịn được cười, hai thằng cười lăn, cười bò. Hôm trước Ninh cạy chiếc răng bọc
vàng đổi lấy mấy củ khoai lang.
Do
tình hình ban giao với Campuchia căng thảng, tất cả “cơ ngơi” vừa được xây dựng
đều bị bỏ lại.
Tháng
5/1976, chuyển lên ga Trảng Táo – Long Khánh, lại đốn cây, đốn tre, phát rừng
làm rẫy.
Ăn vội
cơm nguội, để dành từ chiều hôm qua, Tôi và Ninh lên đường với bình đông nước,
không có vệ binh đi theo. Cảm giác như chim sổ lồng, đi dọc theo đường tàu, vào
rừng tìm tre, càng đi xa tít. Thỉnh thoảng gặp người dân tộc, những cô gái mang
gùi, ngực trần, hai đứa nhìn mấy cô không chớp mắt! Tuổi hai sáu, hai bảy đầy
nhựa sống, nhớ vợ nhớ con, gia đình đang sống bằng gì? Con nhỏ dại, bên người
vợ còn quá trẻ?
“Thứ nhất chặt tre, thứ nhì ve gái “. Gần trưa, chặt xong hai cây tre,
buông dao ngước nhìn trời, làm sao kéo ra khỏi bụi tre rừng? Phải phát quang,
leo lên chặt hết cành, gai đâm buốt, kéo rách toạc chiếc áo đẩm mồ hôi. Đã xế
chiều, đường về xa ngái, vác hai cây tre lên, lom khom đi chưa được 10 mét, đau
vai quá, đành bỏ xuống. Vác từng cây một, cách khoảng 100 mét, quay lại, vác
cây kia, cứ vậy. Đường rừng mịt mù, mau tối, dây leo rậm rì, móc trước, kéo
sau, mò mẩm trong đêm. Về đến trại đã hơn 20 giờ, mọi người nghĩ tôi và Ninh
trốn trại…
Sau hai tháng miệt mài, “ổn định nơi ăn, chốn ở”, Mỗi tổ hai mươi người một gian nhà tranh. Chiều hè nắng gắt, đốt cỏ dọn vệ sinh, đề phòng rắn rít, lửa gặp gió trở chiều, suýt nữa cháy nhà. Chỉ tiêu mỗi ngày chặt hai cây, đường kính ba tấc, hoặc một cây đường kính năm tấc, bằng dao tự rèn. Xong một cây, tôi cùng Ninh ngồi nghỉ, cây không ngã, ngọn vướng dây leo, bỗng nghe răng rắc, đánh sầm trước mặt một nhánh bằng lăng to đùng. Hú hồn, nếu trúng đầu hai đứa…?
Ngày
đốt rừng làm rẫy, bộ đội hướng dẫn:”-
Đốt ngược gió…” Lửa cháy suốt ngày đêm, sáng cả góc trời. Những lần
đi lấy vật liệu, tranh tre, dọc theo đường rầy, ngang ga Trảng Táo, nhìn những
chuyến tàu Bắc Nam, nhớ nhà da diết. Tình cờ tôi gặp mấy đứa em của Bảo – bạn
gần nhà Đà Nẵng - đi kinh tế mới Hàm Tân – Phan Thiết, những gói “quà”
thuốc rê, kẹo, bánh, chuối, đường… từ người lữ hành không quen biết, trên những
chuyến tàu ngược xuôi.
Lại qua cái Tết Đinh Tỵ (1977), gần 900 ngày xa gia đình, tôi không
hình dung được các con ra sao? có biết mình là cha không? Ngày rời xa, Khánh
Phương mới hai tuổi, Thục Nghi hơn sáu tháng?
Rừng Long Khánh ngút ngàn, tôi cùng Bác sĩ Phạm Đăng Thiện (Định cư ở Pháp,
1987) và Dược sĩ B. được phân
công làm “anh nuôi”. Bốn giờ sáng nấu cơm, canh, nước cho anh em mang
theo ăn trưa, dọn dẹp, rửa nồi. Chia cơm xong, cạo cơm cháy, mấy anh em lên
võng nhấm nháp, ngủ bù, kể nhau nghe chuyện trời mây… Thức dậy vo gạo, nhặt
rau, chuẩn bị cơm chiều.
Khoảng tháng
5/1977, lác đác mấy anh được gọi tên về. Anh Mừng – Đội trưởng – cũng được về
đợt này, tôi bất ngờ khi được gọi lên gặp lãnh đạo tiểu đoàn, lòng hồi hộp nghĩ
sẽ được về, bước chân đi với bao nhiêu hy vọng, quê nhà lung linh trước
mắt… Nhưng tôi được chỉ định thay anh Mừng, làm đội trưởng! Giao bếp lại cho
Thiện.
Anh em
đi làm vất vả, cơm không đủ ăn, suốt ngày lao động, nhưng công việc không xong!
Tôi áp dụng giao khoán, quản giáo không ý kiến gì, thế là anh em tha hồ về nghỉ
sớm, miễn là đạt năng suất. Những trái bắp mập ú, những hạt đậu xanh, đậu đen
tròn trịa trên vùng đất mới khai hoang, màu mỡ…
Nhà
Nước chủ trương cấp đất cho sĩ quan cải tạo được về, lập nghiệp tại chỗ. Cuối
tháng 10/1977, có đợt thăm nuôi lần thứ hai, anh em tất bật chặt cây, dựng nhà,
chia phòng, chuẩn bị đón người thân. Mỗi gia đình một phòng, ở lại 24 tiếng
đồng hồ, sau gần ba năm…
Khánh
Phương đen đúa như người Thượng, không cho Ba bồng, khóc thét lên. Thái ngượng
ngùng như ngày mới cưới. Dỗ dành được con, ôm con vào lòng, nước mắt rưng rưng.
Vợ Nguyễn Hữu Sơn (Thanh Quýt) tình cờ đi cùng chuyến tàu với Thái, cùng
xuống ga Mương Mán. Cha nói với Thái:“ Đừng mang thịt, chỉ mang muối đậu, mè để mau về sớm”.
Tôi nghe tin sắp được về, không biết khi nào, dặn Thái nán lại Saigon, đợi tin…
Thời gian qua mau, đưa Thái và con ra ga Trảng Táo, tôi nói nhà Nước cho những
người cải tạo được về, có thể ở lại đây, xây dựng vùng kinh tế mới, được cấp
1000 m2 và căn nhà lá. Thái mừng rỡ, Thái ơi em quá thơ ngây, được về anh như
con chim sổ lồng, bay vút trời mây! Vội vã bay nhanh, không dám ngoảnh đầu nhìn
lại! Tình phụ tử kỳ diệu, Khánh Phương khóc thét lên, không rời Ba, tàu chạy xa
dần, lòng tôi tan nát, nói vậy chứ biết ngày nào đoàn tụ, cha mẹ ơi!
Thời gian này, chớm mầm Nguyễn Ngô Khánh Phi.
GĐ Nguyễn Ngô Khánh Phi
Một tuần sau, khi giao ban ở tiểu đoàn, anh Năm Luân cho biết ngày mai tôi sẽ được về! Bất ngờ, luống cuống, mừng vui không thể tả. anh nhắn nhủ:”Anh phải về quê hoặc đi kinh tế mới, chứ không thể ở thành phố…”
Một đêm thức trắng, nhìn lại bạn bè bồi hồi… Sơn còn ở lại, Ninh và Thiện đã về đợt trước. Sáng mai 7g tập trung ở Tiểu đoàn, nhận giấy ra trại, mười mấy ký gạo và 9 đồng. Mọi người ra ga chờ tàu, đọc đi đọc lại tờ giấy ra trại, tôi vẫn chưa tin, bước chân lên tàu còn quay lui, có vệ binh nào chạy ra gọi lại không?
Hành trang qui cố hương, ôm gọn trong tay. Tàu đến ga Hòa Hưng, vội vã đón xe lam về Hưng Phú. Qua khỏi cầu chữ Y, thấy Thái ở xe lam ngược chiều, tôi hét to như thằng điên, nhìn bộ áo quần và chiếc “valy” bằng bao cát, có lẽ mọi người biết sĩ quan cải tạo mới về, nên cười xòa thông cảm.
Hai hôm sau, mua vé về quê, Chỉ còn đủ tiền mua nải chuối ăn đi đường và cơm cho Khánh Phương. Đến Nha Trang, ai cũng đi ăn, ngoại trừ vợ chồng tôi, ngồi lại ăn…chuối. Dì N. đi buôn Đà Nẵng – Saigon, không quen biết, nhưng cho mượn 5 đồng, vậy là được ăn cơm chiều và mua sữa cho con. Sáng sớm, xe đến Vĩnh Điện, chào và cám ơn dì N. hẹn ngày báo đáp, cõng con đi bộ về Hạ Nông, Điện Phước.
Bước
vào nhà, không phải là nhà. Căn nhà ngói khang trang ngày xưa, bị bom, chỉ còn
trơ nền gạch đỏ. Mẹ hom hem, không như mẹ của ba năm về trước, cha vẫn căn bệnh
phổi mãn tính, ho hen quanh năm, ho càng dữ dội hơn khi thiếu thuốc. Mẹ, mới
hơn năm mươi, da đã nhăn nheo, mừng mừng, tủi tủi…Thục Nghi khoác ré lên:”…Mẹ, cậu…”, thân thể đầy
ghẻ, chốc, đầu cạo trọc lóc. Ôm con trong tay, đầu óc trống rỗng như tương lai
vô định của mình. Mẹ bắt uống bát nước giếng cho khỏi chống nước, cha ngồi nhìn
thằng con rồi nói:”Nghỉ ngơi rồi đi trình diện chính quyền…”m 1975, cha mẹ quy cố hương – Cha 59, mẹ 51 và tôi chỉ mới 25
– Cha mẹ dường như đã già hơn mười tuổi. Cái nôi thời thơ ấu, gần như hoang phế
bởi chiến tranh, gạch vỡ vây quanh làm tường, mái tole cũ tạm bợ. Cha ốm yếu,
mẹ và Thái không biết làm ruộng, hai con còn nhỏ…
Đi trả công thay mẹ, đàn ông như tôi quá tệ, xóc đầu này lại tuột đầu
kia, không gánh nổi hai bó lúa, lưng còng như con tôm, quỵ xuống bên bờ ruộng,
thôi đành vác từng bó lên vai… Chú sáu Bề nói thôi không gánh nữa, gom lúa đã
gặt, chú gánh giúp. Đứng trên mảnh ruộng này: Rộc Ngang, đám Lớn, bàu Lát…cha
đã dành dụm, không dám ăn tiêu để có nó. Bây giờ của HTX, tôi đi làm thuê.
Cha đã làm đơn hiến đất, mong thằng con hưởng lượng “khoan hồng”, không hiến cũng không xong.
Ký ức thời thơ ấu tràn về như dòng thác lũ, tôi đã dẩm đạp từng hàng lúa non,
khi cha cầm roi rượt đánh thằng con mất dạy, cha đứng bờ đông, con chạy bờ tây,
cha ho rũ rượi nhưng chẳng làm gì được thằng con!
Năm 1956, cha mẹ về quê lập nghiệp, xây căn nhà ngói ba gian, to nhất
làng, hàng keo quanh vườn, cây mít, giàn trầu, cam quýt, ổi thơm ngon. Những
trưa hè yên ả, tôi cùng anh Ngộ, Dần lên Miếu Bà “ném” xoài. Những trái xoài
chín vàng lựng trên cao, Dần, anh Ngộ giành giật, đánh nhau… Mùa đông, sáng tinh
mơ cha co ro trong chiếc “tơi lá”, ho
sù sụ chèo ghe nan giỡ lờ. Những con cá rô, cá tràu, cá diếc óng ánh bạc vẫy
đành đạch, ăn không hết mẹ rửa sạch, muối để dành.
Mẹ - con gái thành phố - theo cha về làm ruộng, tất bật với heo gà lam
lủ. Tấm lòng rộng lượng của mẹ ai cũng quý, trả công còn tặng thêm, cảm thông
với những mảnh đời nghèo khó.
Tôi đã học được nghề gò từ trại cải tạo, xin ngồi trước nhà bác B. (gần HTX Hiệp Thành), công xá từ những chiếc thùng tưới, thùng gánh nước, thay đáy thùng… Mỗi chiều về có tiền, mua cho mẹ chút trầu cau, cho con chút đường, thay sữa! Đêm về, bên ngọn đèn dầu, lật ngữa chiếc xe đạp, nghiên cứu, vẽ cách đan tăm, tháo ra, lắp vào đến sáng chưa xong, tìm hiểu để làm thêm nghề sửa, vá xe đạp. Lão Mười Xoa – có tiệm sửa xe ở chợ Bình Long – hung hăng:”- Mầy là ai mà ngồi đây?” Thân phận “chưa có quyền công dân”, đâu dám nói gì…!
THÂN PHẬN
Mẹ tần tảo nuôi con
Đêm mưa và ngày nắng
Cằn cỗi cuộc đời nước mặn đồng chua
Quê ta nghèo mùa được mùa thua
Theo gió bão sớm dưa chiều muối
Tuổi tám mươi Mẹ chưa một lần tiếc nuối
Nuôi con khôn lớn những ngày
Gắng học nên người
Tạo dựng ngày mai
Đời của Mẹ qua rồi thời nô lệ
Đời ta nghèo, nhà ta bao thế hệ
Nước ta nghèo cần chất xám nơi con
Nhưng Mẹ ơi,
con chờ đợi mỗi mòn
Xin làm những gì hợp với nghề con
Người ta bảo anh nên làm ruộng rẫy
Và con rất tự hào hăng say cày cấy
Cử nhân như con biết mấy vạn người
Đạp xe thồ, bốc vác chợ trời
Hay tay lấm chân bùn như con của Mẹ
Nên đàn em con
Chẳng học hành ra lẽ
Vì tương lai không định hướng nên người
Bên lề cuộc
đời sớm hôm con quạnh quẽ
Ôi quê hương bình minh chưa hé trời đông
Hãy chung tay cùng dựng ánh mai hồng
Cho quê hương bừng lên khởi sắc
Không còn hận thù, phân chia Nam Bắc
Để dựng xây nhà máy, công trường
Đàn em con hớn hở đến trường
Để con Mẹ
chẳng còn bỡ ngỡ
Nhìn quê hương mà ngỡ quê người...
(1978)
Ngày 20/7/1978 (16/6 Mậu Ngọ) đưa Thái ra
Đà Nẵng, chờ sinh Khánh Phi.
Ngày 21/7/1978, Nguyễn Ngô Khánh Phi ra
đời.
Chiều 22/7/1978, Mẹ móc hết tiền trong túi
được 6 đồng để tôi ra Đà Nẵng.
Đến bến xe chợ Cồn gặp bà ngoại mấy cháu từ
Hòa Châu ra thăm con gái, hai mẹ con vào bệnh viện…
Khoảng 5g chiều ngày
23/7/1978, tôi ngồi đan lại cái nôi mượn của cô Ngọc, bỗng Phước – hôn thê
Lũy, chạy vào hớt hơ hớt hãi:”- Anh Châu, bác gái…mất rồi!”
Như tiếng sét bên tai, bàng
hoàng… tôi mượn xe honda của cậu Ngãi, chở em Ngọc chạy bay về quê, trời mưa
lâm râm, qua cầu Thanh Quýt đường trơn, hai anh em ngã lăn quay, dựng xe chạy
tiếp về đến ngõ Nghè Mai, tuôn luôn xuống ruộng, bà Ba Ra kêu lên:”- Con ơi
! Mạ con…”
Để xe nhà chú Dần, hai anh em
chạy bộ về nhà. Trời ơi! Mẹ tôi mới hôm qua… làm sao kể hết nỗi đau đớn trong
lòng! Mẹ muốn ra thăm cháu, Lũy chở mẹ bằng xe đạp ra đường cái, “Mạ đau
đầu, chóng mặt Lũy ơi…” rồi ngã xuống đất, mọi người dìu vào nhà bà Ba Ra,
thì mất – 14g ngày 23/7/1978 (19/6 Mậu Ngọ)
Như vậy, tôi đi cải tạo về
cuối tháng 11/1977, đến khi mẹ mất 23/7/1978, mới hơn 8 tháng!
Cha cho mấy cây cột “mùn”, tôi cùng anh Ngộ
kéo xe “bò” ra Hòa Châu, cách xa hơn 20km, ông bà ngoại cho tre, bà ngoại làm gà ăn cơm tối, anh em đẩy xe
về trong đêm.
Chú Liếng giúp làm nhà, cha dạy đánh tranh
rạ, trộn đất sét với rơm làm vách.
Nhìn con còi cọc, tôi ăn trộm con gà của
cha, đêm tối bắt nhầm con gà mái đẻ, cha chửi quá trời! Không có gì mời “quan viên”, lại nghe nói xương chó
hầm đậu xanh trị bệnh ghẽ lở trẻ con, tôi lừa con chó chạy xuống mương thủy
lợi, trấn nước, đãi khách!
HTX cần người đo đạc. Tôi cùng anh Đinh
Khóa, Nguyễn Đức Thu, Ngô Minh Hiền lập nên “bản đồ giải thửa” đầu tiên của xã Điện Phước. Ngày đi ngắm, cầm “mia”,
đêm về dạy bổ túc văn hóa, tôi dạy các môn tự nhiên, Trần Hoài Thanh dạy văn, Nguyễn Đức Thu dạy “toàn
bộ” cấp 1, Thầy Điểu quản lý, Tào Bạn – Bí thư xã đoàn – hiệu trưởng. Mỗi mùa được chia 60 kí lúa “điều
hòa”.
Nhờ Ngô Minh Hiền, tôi xin được mảnh đất mấy
chục mét vuông, gần ngã ba đường cái cũ, thuê người san lấp vội. Mùa gặt đã qua, lại nhờ
học viên bổ túc về dỡ nhà, băng ruộng, dựng lên
trên nền đất mới (nhà bác Hiệp, bây giờ). Thái không hay biết gì, cha
cũng ngỡ ngàng, không biết thằng con “khiêng” nhà đi
đâu? Dựng nhà, lợp mái, chỉ trong… một ngày. Thuê cô Mận, gánh gạch từ căn nhà đổ nát của cha, xếp lên làm
vách, cửa nẽo trống trơn, cha cho tủ thờ, ông bà ngoại cho bộ bàn ghế.
Đêm về, khóa xe đạp vào chân tủ, sáng ra
mất xe, mất hết quần áo, mất cả kính cận thị của Thái. Nhìn sang bên kia đường, vài chiếc áo trẻ con tơi tả, may
sao kính của Thái còn lại chơ vơ trên bờ ruộng. Chú Dũng (Trung) gọi con nhà
ông Tư hàng xóm đo chân, bị chửi té tát.
Thật Trời có mắt, Thái cuốc đất gieo mạ,
lượm được khâu vàng. Không dám đi thử vì sợ vàng giả, nhờ em Lan (con dì Bảy) bán dùm, em Lan nói cân được
chỉ rưỡi. Mua lại xe đạp, có vốn chạy quanh tìm mua xe đạp cũ, lấy phụ tùng. Nhớ
mãi Trần Lý (Thiếu úy không quân - bạn học Nguyễn Duy Hiệu) cũng có tiệm
sửa xe đạp và bán phụ tùng ở gần tháp Bằng An – Điện An.
Túp lều sửa xe đạp đơn sơ bên lề đường
tỉnh lộ 609, gần góc ngã ba đường cái cũ thuộc thôn Nhị Dinh, Điện Phước, Điện
Bàn, Quảng Nam. Tôi và Dũng, hơn kém nhau vài tuổi cùng “hành nghề”. Kinh
nghiệm của cả hai là chiếc xe đạp cũ, thường xuyên tháo ra “nghiên cứu” rồi lại
lắp vào. Có lẽ bà con chưa tín nhiệm nên chỉ có vá ruột xe hay “may triên” là
chủ yếu. Ngày đó lốp xe đạp rất tệ, bôm căng dễ bị nổ “banh ta lông”.
Tôi bảo chú Dũng tầm sư học thêm nghề “lộn sên” (xích) xe đạp, phần tôi tìm
sách dạy sửa xe gắn máy về cùng nhau tự học. Những người bạn ngày xưa như Trần
Hoài Thanh, Mai Đức Phụ, Lê Cao Diện cùng một số bà con thân quen đã “can đảm”
giao xe đạp cho hai anh em chúng tôi sửa chữa và “tân trang”… Dũng lãnh phần
chở sườn xe đi sơn ở Vĩnh Điện, mua decal, phụ tùng.
Một buổi sáng hai anh em đang ngồi nhâm nhi
ly cà phê, bỗng có cô gái rất xinh, đạp xe mini, nói giọng miền Nam vào tìm anh
Dũng nhờ sửa xe…
Dũng giới thiệu cô tên Trung, giáo viên
trường tiểu học Điện An. Sau 1975, gia đình Trung từ Saigon hồi cư. Tình yêu
chân thành đã đến với Dũng - Trung mặc dù không ít gian nan, trắc trở. Ngày
thành hôn, tôi tìm giấy màu cắt chữ song hỉ, trăm năm hạnh phúc và làm chủ hôn
cho hai em. Nhưng cưới xong, nhà ai nấy ở, Dũng vẫn hằng ngày đến cùng tôi dưới
mái lều sửa xe đạp để mưu sinh.
(Năm 1980 tôi đưa gia đình vào Nam, đi kinh
tế mới tự túc. Khoảng 10 năm sau, Dũng – Trung cũng vào Saigon và phụ bán đồ
phụ tùng cho người bà con. Tôi vui mừng hạnh phúc khi thấy hai em cùng các cháu
đã ổn định và có
nhà
riêng ở Q.8.
Khoảng 17g ngày 27.7.2021 (18.6 Tân Sửu),
Khánh Vỹ đi làm về báo tin chú Dũng đã qua đời. Tôi lặng người, ngậm ngùi rơi
nước mắt, không thể được nhìn mặt Dũng lần cuối trong hoàn cảnh dịch bệnh Covid
tràn lan và chính quyền đã áp dụng CT.16 toàn thành phố.
Dù không cật ruột, nhưng Dũng - Trung đối
với gia đình tôi như người em thân thương, người chú nhân từ của các cháu.
Lòng
thành đốt nén tâm nhang, cầu nguyện hương linh em Nguyễn Văn Dũng (04.12.1952-27.7.2021)
về nơi an lạc, siêu thăng tịnh độ.)
Ngày 05 tháng 10 năm 1979, Nguyễn Ngô Khánh
Vỹ ra đời, sau Khánh Phi 15 tháng!
Nguyễn Ngô Khánh Vỹ
Sau ngày mãn tang mẹ, cha cùng tôi đi hỏi
vợ cho Lũy.
Dượng Tường (chồng cô Ngọc) cho chiếc xe Lambretta, sơn sửa lại thật đẹp. Có
người gạ đổi xe honda SS67, tôi sửa chữa ngon lành nhưng không có xăng để chạy.
Để bán có giá, tôi tháo tung theo sách dạy:”mở
trước, lắp sau”, chùi rữa cẩn thận, đến piston, xy-lanh cạo trắng tinh, còn
dùng giấy nhám đánh bóng loáng! đến khi ráp vào không biết cái nào trước, cái
nào sau. Nửa đêm, chạy vào nhờ anh Lê Cao Diện (Thư ký UB xã Điện Phước – GĐ/BHXH Điện Bàn sau này) – Gần sáng, đổ
xăng, xe nổ rầm trời tệ hơn lúc chưa sửa, do lòng xy-lanh không còn kín hơi,
nhờ vậy tôi biết sửa xe máy. Bán cho anh H. – trại gỗ Hiệp Thành – được 4 chỉ
vàng. Tôi mua lại xe Suzuki, cũng của dượng Tường, không xăng, đắp chiếu. Trần
Hoài Thanh mượn đi Đà Nẵng, lúc về nổ banh lốp, không có lốp để thay, tôi đổi
ngang chiếc xe đạp duya-ra cho Nguyễn Xuân Thống, kẻ trộm lấy mất.
Trần Tường và cháu nội
Không thể sống như thế này, tôi xin cha cho đi kinh tế mới tự túc, ngậm ngùi cha chỉ nói:”- Con còn nhỏ dại, biết làm sao? Nhưng an tâm mà đi, ở nhà có Ngọc, Lũy…”. Bán lại cơ ngơi cho anh Hiệp, bà bốn Nam trả một cây vàng, anh Hiệp đưa 8 chỉ. Ngày 2 tháng 9 năm 1980 lên đường, anh em HTX cho thịt, anh Diện cho cái mùng, hàng xóm cho xôi, học trò bổ túc tiễn đưa gia đình thầy, vào nơi vô định…
THA PHƯƠNG
Khơi hành từ 16g ngày 02/9/1980 – Ngang qua
Nam Phước, chỉ dành lại đủ tiền đi đường và trả tiền xe, tôi mua heo con và
hai heo thịt, hy vọng bán kiếm lời. Tâm
trạng lo âu bị thu mua, hàng loạt trạm “quản
lý thị trường”: Ngã ba Phú Tài, Thuận Hải, Ngã ba Dầu Giây… Tình cờ gặp anh
Hứa Pha (đã mất 1995) ở Dầu Giây, vậy
là quyết định dừng chân, tá túc nhà anh Pha. Hôm sau thuê xe lam anh Đông chở
heo lên chợ Long Khánh, giá bán không bằng mua. Xuống Hố Nai, heo con bắt đầu
ỉa chảy, vừa bán vừa lạy, thu được nửa tiền!
Mua lại miếng đất, rìa lô cao su của Năm Bọ
hai chỉ vàng, xuống Hố Nai mua cây lá về làm nhà… Tôi với anh Pha làm từ sáng
đến chiều, xong cái nhà! Gia tài chỉ còn lại cái xe đạp mi-ni và chút ít tiền
để mua đồ nghề sửa xe.
Chú Bảy Cấn cho ngồi trước nhà sửa xe bên
cạnh tiệm hớt tóc của anh Tình, tiệm may của chú Ri (đã mất). Tiếng khen, lời chê tay nghề non yếu, vinh nhục đủ điều.
Lão ấp trưởng T. chân thọt, gởi giấy:”Mời
ông sửa xe và ông hớt tóc… đúng 8g ngày…. có mặt tại văn phòng ấp, không được
vắng mặt… “, chú Bảy xem giấy, rồi nói: “- Tụi bay không đi đâu hết, giấy mời phải có tên họ đàng hoàng…”
nhưng tôi cũng mua hai điếu thuốc SAMIT tìm nhà lão..!
Gần Tết 1980 (Canh Thân), theo mấy chị đi mua đậu nành, chở lên Saigon bán kiếm
lời, mua trước trả sau. Đến ngã ba Vũng Tàu bị thu mua sạch, chỉ còn đủ tiền
mua mấy ổ bánh mì về cho con! Vậy là quần áo mới, giày dép cho con bay theo gió
bụi. Chiều ba mươi, chị Lệ Phương (Mẹ NS
Hoài Linh) cho mấy ký gạo và chai nước mắm, Dì Bá (Mẹ Dũng, Mận…) cho thêm gạo. Mùng một, Phương, Nghi thấp thỏm nhìn
sang hàng xóm, áo xanh, áo đỏ… Chờ bà con hang xóm… lì xì cho con, tôi mượn lại
để đi trả lễ! Trước Tết, tôi lên quán cà phê của Cẩn (Nguyễn Văn Cẩn – bạn học Nguyễn Duy Hiệu – mất 1992), Cẩn hứa trưa
ba mươi cho mượn 5 đồng, uống xong ly cà phê, nấn ná chờ bạn, gần trưa Cẩn nói
không có, lòng tôi đắng ngắt! Bởi vậy, tôi nguyện phải thực hiện lời hứa cho
bằng được, nhất là những ai khó khăn hơn mình.
Khánh Vỹ biết bò, nhưng èo uột vì suy dinh
dưỡng, kể cả Khánh Phi, để đâu ngồi đó. Thái bán mì Quảng ở chợ Dầu Giây. Sáng
tôi đi làm xách theo xô bột, chiều về tráng mì đến khuya, 5g sáng nghe còi công
trường cao su tò te, thức dậy xắt mì, làm gà nấu nước nhưn… Ngày đầu tiên, Thái
nói lời 10 đồng cả nhà mừng vui, các con có cái ăn, Khánh Phương, Thục Nghi gặm
xương cười toe toét… Nhà lại có khách, cậu Bốn dắt Hạnh (con dì Chín) ghé nhà, vừa mừng, vừa lo, lấy gì đãi khách? Gánh mì
để lại… Thái bán được nửa tháng, không bán nữa, hỏi ra ngày nào cũng lỗ, nhưng
sợ tôi… buồn! Nợ mấy con gà, hơn chục ký gạo, thôi đành bán chiếc xe đạp mi-ni
trả nợ.
Đang đi bộ lên dốc Ba Cô, bất ngờ gặp Phạm
Hữu Phước (cùng K22/HQNT), đẩy xe
chuối từ ấp Ngô Quyền ra, mồ hôi đẩm lưng bên chiếc xe thồ cải tiến từ cái sườn
mobilette, hai thằng nhìn nhau mừng mừng, tủi tủi!
Hết bán mì, xoay qua bán chè. Hồi còn ở
quê, tôi xuống Vĩnh Điện tìm nhà Cương (cùng
lớp Nguyễn Duy Hiệu) – Cương là ca sĩ của lớp, “Ai lên xứ hoa đào”, “Biệt
kinh kỳ” với tiếng hát ngọt ngào của cô bé tóc dài, buộc tròn thả dọc lưng
thon – Hoa, em Cương hướng dẫn tôi nấu chè, đậu đen, đậu xanh, đậu đỏ, đậu ván…
cùng với đá bào nhuyển.
Vùng Đông Nam bộ bắt đầu mùa mưa vào tháng
5, 6. Sáng sớm, Thái gánh chè lên chợ, trời đổ mưa bán ế, trưa ăn thay cơm. Con
ăn không quen, ỉa chảy, không tiền mua thuốc, nhưng Trời thương, rồi cũng qua.
Tình cờ có anh hỏng xe, ngồi tâm sự biết
cùng quân chủng hải quân, anh là thượng sĩ. Anh mời lên Saigon, nhà ở quận 4,
anh tặng đồ nghề, mấy thùng sách, nào là “Thiên
Long Bát Bộ”, “Anh Hùng Xạ Điêu”, “Phong Thần diễn nghĩa”, “Cô gái Đồ Long”…
Tôi nghĩ đến việc cho thuê sách. Không may, Nông trường cao su giải tỏa đất lấn
chiếm lô cao su, dỡ nhà! Dì Ba Nhựt ở ấp Trần Cao Vân cho ở nhờ, “túp lều của chú Tom” không biết lớn cỡ
nào, nhưng “nhà” tôi mái lá, không
vách, gần cầu tiêu lộ thiên nhà hàng xóm.
Dầu Giây là vùng đất hứa, nơi dung thân của
nhiều anh em sĩ quan cải tạo về như tôi, rất đông bà con nhập cư từ miền Trung
vào sinh sống, làm rẫy. Có lẽ vậy, nên nhiều người thích đọc sách, để lãng quên
phần nào trong cuộc đời khốn khó. Mỗi ngày cho thuê gần trăm cuốn sách, mỗi
cuốn 50 xu, tiền cọc mỗi cuốn 20 đồng. Công việc phù hợp với Thái, mỗi ngày có
50 đồng! bằng 15 ký gạo. Tôi dùng nửa tiền cọc, mua thêm sách…
Cán bộ địa phương đa số cũng là dân nhập cư, nên có phần cảm thông với những số phận long đong, Chú Tám Hiền – Phó chủ tịch xã Bàu Hàm 2 (đã mất 1993), chú Thanh (bây giờ Bí thư Huyện ủy), chú Sang, chú tám Đô, chú Cắm, chú Tài (Bí thư), Bác Hai Trác (Chủ tịch - đã mất) đã tạo điều kiện giúp đỡ. Biết bao ân tình không thể trả, Dầu Giây là quê hương thứ hai của gia đình tôi.
Từ trái: Nguyễn Văn Cẩn (mất),Thạnh
“lùn”, Châu. Tám Đô, Tư Thanh, Trì, Phẩm - 1986
Đoàn cán bộ liên ngành huyện Thống Nhất
kiểm tra, quy tội cho tôi: “tàng trữ văn
hóa đồi trụy”, tịch thu sạch, kể cả tự điển. Hậu quả càng thê thảm hơn, khi
khách trả sách, lấy lại tiền cọc! Nhìn con thơ mà cười ra nước mắt. Khánh
Phương giữ em, hai vợ chồng vào rẫy hái chôm chôm, kiến cắn đỏ người, ì ạch đẩy
hai giỏ chôm chôm hơn ba cây số trên đường đất đỏ, lời 15 đồng, chưa đủ trả lại
tiền cọc một cuốn sách!
Không tiền, cả nhà ăn chuối chiên, bánh
bèo chịu của bà T. (Mẹ Thầy Đạt), đầu
hẻm chùa Khánh Lâm.
Trước nhà bác Tài Liễng còn khoảnh đất
trống, tôi xin bác dựng “túp lều” để sửa xe và ở. Hợp tác với Lộc (mất 1996) – thợ gò, hàn – mua khung xe đạp hỏng, hàn,
sơn lại rồi bán, có đồng ra đồng vào. Thái, Khánh Phương (7 tuổi) phụ vá xe đạp! Nghĩ lại mà lòng đớn đau thương vợ con và
ngậm ngùi cho một quảng đời chìm nổi.Túp lều kiêm tiệm sửa xe, không cầu tiêu,
cả nhà phải chạy vào lô cao su khá xa, nên đành tập…nhịn!
Cuộc sống quá cơ cực, tôi nhờ anh Trang (Hải quân), có bạn lái xe tải đưa Thái
cùng ba đứa con về Đà Nẵng, Khánh Phương ở lại. Gần tuần sau, hai cha con ngồi
nhớ mông lung… Bỗng Phương kêu lên:”- Ba
ơi ! Mẹ kìa…” Ôi trời ơi, nhìn mấy mẹ con, thân tàn ma dại như chạy giặc,
chân không dép, đen đúa như cái bang!“-
Xe đến Đại Lãnh bị… lụt, nằm chờ, không có gì ăn, xin xe quay lại…”
Khánh
Phương lớp hai, Thục Nghi lớp một. Gần cuối năm 1981, Thái đau bụng dữ dội.
Bệnh viện Thánh Tâm – Hố Nai chẩn đoán viêm đại tràng, chích thuốc trụ sinh mấy
ngày, không thuyên giảm, tôi dìu Thái trốn khỏi Thánh Tâm lên Saigon, bác sĩ
bệnh viện Hùng Vương khám xong, la to:“cấp
cứu – mổ ngay, thai ngoài tử cung!”. May nhà có phúc, nhưng “triệt sản” từ đây!
Vậy là đêm ở bệnh viện, gần sáng tôi đón xe
về Dầu Giây với con, sửa xe kiếm tiền, nhờ quán cơm Hoa Thời Trang – chú Mỹ -
cho con ăn chịu. Cứ thế! hơn một tháng, khi Thái đã khỏe xuất viện về nhà, tôi
đở vất vả hơn.
Hậu quả, Thái không còn thích chuyện vợ
chồng, tuổi đời tôi mới hơn ba mươi!
“ Quy y từ thưở
mặn nồng
Lữa tình rực
cháy tấm lòng từ bi”
Đêm về trằn trọc, những cuốn sách là người
bạn thân thiết, dỗ dành giấc ngủ…
Đầu năm 1982, nhờ Thầy Đức (Hiệu trưởng – Trường Bàu Hàm 2) xin cho Thái học lớp “sư phạm cấp tốc” dạy cấp 1. Thời gian này Đồng Nai thiếu giáo viên trầm trọng, sau ba tháng học ở Biên Hòa, Thái được phân công về trường Bàu Hàm 2. Tôi đã có cơ hội làm quen các Thầy, nhất là Thầy Huỳnh Văn Ba (đã mất) – Trưởng phòng Giáo dục huyện Thống Nhất, quê Gò Nổi, Điện Bàn – Tôi tặng thầy bài thơ:
THĂM QUÊ
Hôm tôi về thăm quê hương
Đất phù sa Gò nổi
Dòng sông Thu chẳng hề thay đổi
Hợp rồi chia ôm ấp trọn tình người
Như lòng dân Gò Nổi với đời
Lao xao sóng gợn vẫn lời thuỷ chung
Xa quê lòng nhớ khôn cùng
Cây đa Bàng Lãnh kiên trung đợi chờ
Đạn bom lửa dội từng giờ
Quê tôi cày nát, rừng ngơ ngác buồn
Chẳng còn gì nữa đâu
Lối cũ làng xưa
Đây Xuân Đài đồng nội
Mộ Hoàng Diệu với từng cơn bão nổi
Sinh ở đất Gò địa táng cũng ngàn năm
"Nhất tử thành danh, tự cổ anh
hùng phi sở nguyện
Bình sinh trung nghĩa, đương niên đại
cuộc khởi vô tâm"
Gò Nổi ta ơi lòng Mẹ thăng trầm
Đất "Ngũ Phụng Tề Phi" rạng ngời gương chính khí
Hôm tôi về
thăm quê hương
Đò xuôi sóng vỗ
Bãi dâu xanh tơ vàng ánh nước
Lối cũ đến trường nhớ chuyện ngày xưa
Lối cũ đến trường hai buổi sớm trưa
Chiều Bảo An nghe miên man dòng nhớ
Trần Cao Vân âm vang muôn thuở
Đất phù sa Tư Phú rạng danh Người
"Ngó lên
Hòn Kẽm đá dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi"
Lời ru nhớ mãi muôn đời
Tình non tình nước tình người thuỷ chung
Phan Nguyễn Châu Uyên
Ngã ba Dầu Giây - Đồng Nai
1982
Thái được đi học sư phạm, nhân tiện tôi xin
cho Lan, nhà đối diện đi cùng. Má Lan (Bà
Cấp – mất 2008) nhìn mấy cha con, chiều về hiu quạnh dưới túp lều quá tệ,
nên cho ở nhờ. Nhà Má Cấp hai tầng khang trang, Lan đi không người trông nom,
Má dọn về dưới rẫy… Thật mà như mơ, các con có chỗ ngủ đàng hoàng, vệ sinh
không phải chạy vào lô cao su xa ngái! Thục Nghi bị chàm ăn chân, lỡ loét, nghe
lời lang băm, tôi dùng thuốc rê bó chân con, con say thuốc tái xanh, suýt chết.
Tôi lại mở lớp dạy kèm, luyện thi “một thầy, vài trò… con nheo nhóc bốn đứa”.
Đến bây giờ, tôi không hiểu nhờ “nghị lực”
nào, mình đã vượt qua?
Mấy tháng sau, tôi cũng xin đi học “sư phạm cấp tốc”, lý lịch như tôi mà
được đi dạy, nghĩ cũng lạ! Nhập trường hai ngày, tôi được chỉ định làm lớp
trưởng. Sáng hôm sau có giấy mời lên Ty Giáo Dục Đồng Nai gặp chú Ba Th. – Giám Đốc. Chú Th. lật đi lật lại hồ sơ rồi
hỏi:“- Tại sao anh xin đi học sư phạm?”
Tôi lo lắng và hồi hộp, phen này thì thôi rồi, mình mong ước được làm những gì
hợp với mình, thế mà…
-
Thưa
chú, ngày còn sinh viên, tôi đã ước mơ làm
thầy
giáo. Thời gian qua, sau
khi đi cải tạo về, tôi đã dạy bổ túc văn hóa cho cán bộ địa phương. Nếu chú
đồng ý, tôi sẽ tiếp tục ước mơ của mình, còn không thì tôi cám ơn và chào chú!
-
Vậy
anh có hiểu “Nguyên lý giáo dục của Đảng là
Gì
không?”. Nền giáo dục nào cũng phải phục vụ chính trị
cho chế độ ấy
không?
-
Thưa
tôi hiểu!
- Thôi được, anh tiếp tục về trường…
Lớp SPCT tại Biên Hòa
Ôi! cái điều lo nghĩ đã qua, từ bây giờ bốn
đứa con, được ăn theo cha mẹ, có gạo, nhu yếu phẩm hằng tháng, không còn phập
phồng bữa đói bữa no, không còn ăn chịu bánh bèo, chuối chiên với dầu cao su!
Ban cán sự lớp được ở phòng riêng, cuối
tuần về nhà, trong lớp đa số là nữ, từ khắp nơi thuộc tỉnh Đồng Nai. Những
khuôn mặt trẻ trung, hồn nhiên đã đưa tôi vào mộng mị…
Ra trường, tôi được phân công về trường cấp 1, 2 Bàu Hàm 2 mới xây, do
chị Phạm Thị Bím (Quê Thái Bình) làm
hiệu trưởng. Vì thiếu giáo viên cấp 2, tôi được “đôn” lên dạy toán khối lớp 9.
Công việc tạm ổn, hè 1984 tôi về quê thăm cha. Một mình cha quạnh quẽ
bên căn nhà tồi tàn, bây giờ rách nát hơn, vợ chồng Ngọc, Lũy thỉnh thoảng về
thăm. Đã gần bốn năm từ ngày ra đi, thời gian như bóng câu qua cửa sổ. Tôi thưa
với cha:”- Gia đình con tạm ổn định, con
muốn đưa ba vào ở với tụi con, ở đây một mình không ai chăm sóc…”. Cha suy
nghĩ, rồi đồng ý. Căn nhà và hoa lợi trong vườn, giao cho anh Ngộ.
Hai cha con ra Đà Nẵng, bàn với vợ chồng Ngọc, Lũy. Trước mặt cha và hai
em:”- Anh đưa ba vào sinh sống cùng anh,
nhà của ba mạ, căn trước giao cho vợ chồng Tường Ngọc, căn sau vợ chồng Lũy
Phước…”. Mua vé tàu, hai cha con lên đường.
Nguyện với lòng, chăm sóc cha chu đáo, dù cuộc sống còn khó khăn, ở nhờ,
nhưng không sợ đói. Cha thấy hai vợ chồng con đều đi dạy học, nghĩa là được hòa
nhập với cuộc sống như bao người khác. Nếu ở quê miền Trung lại khác, tôi nhớ
ơn tất cả mọi người ở Dầu Giây và đất Đồng Nai đã nâng bước chân mình, để bước tiếp
trên con đường còn nhiều gian lao, trắc trở.
Được một thời gian, Cha nói:”- Đây
là vùng đất dễ sống, hay là con về Đà Nẵng bàn với mấy em vào đây sinh sống,
muốn dời thì phải bán nhà…”. Nhưng tôi nghĩ khác, trước hết các em phải có
việc làm, đừng như con, hoàn cảnh con khác các em. Lúc này Lũy bị mất việc,
Tường không đi củi ở rừng nữa, vì mỗi ngày quản lý rừng chặc chẻ hơn. Tôi nói
với anh Hiền (GĐ Nông trường Cao su Dầu
Giây) cho Lũy làm công nhân, Tường làm bảo vệ. Tôi được cấp lô đất hơn 200
m2 trên TL.769, gần văn phòng Nông trường Cao su. Cha rất mừng, hối thúc Lũy,
Tường gởi gấp hồ sơ.
Tôi về lại Đà Nẵng, bàn với các em. Căn trước bán được 5 chỉ vàng, giao
cho Tường Ngọc 2 chỉ, Tường mua khẩu súng bắn chim hết 1 chỉ! Lũy ở lại chờ bán
căn sau. Tôi cùng gia đình Tường Ngọc và hai cháu Thành, Công lên tàu vào Dầu
Giây. Mua mảnh đất sau nhà chú Bảy Cấn hết 2 chỉ. Khi Lũy bán nhà xong sẽ mua
tole chở vào, lợp nhà còn dư, bán kiếm lời. Tôi mua xi-măng, gạch “đối lưu” bằng bắp để xây nhà cho Lũy –
Nông trường cho xen canh vào các lô cao su mới trồng, tỉa bắp đậu chờ thu hoạch
– Tường Ngọc lên rẫy nhìn sướng con mắt, tôi sẽ cho hai em canh tác mùa sau…
Vợ chồng Lũy vào, có thêm tiền sau khi mua tole. Cha vui lắm, nhà Lũy
xây xong, cha và Lũy vào ở, gia đình Tường Ngọc tá túc với tôi. Thu hoạch bắp
không đủ trả xi-măng, gạch. Lũy nói hết tiền, đành thiếu nợ. Lũy đi làm cán bộ
Nông trường, xung phong làm “xà-phòng”
thất bại, nông trường cho nghỉ. Lũy bán nhà, đưa cha theo về, mua nhà ở chợ
Cồn!
Một người khách quen, cuối tuần thường ghé tiệm sửa xe, chiếc honda 68
đầy bùn đất, tôi đã sửa xe này nhiều lần. Bất chợt ông khách hỏi thăm:”- Thợ sửa xe sao gọi bằng thầy ?” “- Dạ, giáo viên làm thêm…” Ông khách nhìn
quanh:”- Hôm nào lên Lâm trường Mã Đà,
tao cho ít cây làm nhà…” Nghe, cám ơn rồi quên mất. Khi được nông trường
cấp đất, tôi sực nhớ và tìm đường lên Mã Đà…
“Mã Đà sơn cước anh hùng tận” là câu
truyền tụng trong dân gian vùng đất nguyên sơ ở Đông Nam Bộ. Ngày xưa Mã Đà là
giang sơn của các bộ tộc người S’tiêng và Châu Mạ. Được coi như là cõi ma
thiêng nước độc “đi dễ, khó về” đối với những ai mang tham vọng mạo hiểm vào “miền đất chết” này để làm giàu. Nơi đây
vốn là quê hương lâu đời của những loài cây cổ thụ có tên và không tên, của
những vạt rừng già mênh mông không vết chân người, của những con suối chảy xiết
như suối Mã Đà, suối Ma Sô, suối Đạt Bo, suối La Mách… Mã Đà còn là đất thánh
của các giống thú lạ lẫm với con người như hà mã, voi, cọp, beo, gấu, khỉ, dọc…
là sào huyệt của các giống bò sát như trăn, rắn, thuồng luồng, cá sấu, kỳ đà…
Vùng rừng Mã Đà trong hệ thống rừng Đồng Nai có nhiều đồi núi cao như
đồi Bằng Lăng, đồi Quít Rừng, đồi Tam Cấp… Một vùng rừng rậm bát ngát gần như
bất khả xâm phạm đối với con người. Con người trở nên bé nhỏ và bất lực trước
thiên nhiên đầy rắn rết, muỗi mòng, đỉa vắt. Đặc biệt là đối với mầm sốt rét
kinh niên và bất trị. Đa số người lên “khám
phá” Mã Đà xưa kia đều mất mạng vì chứng sốt ác tính, một số khác mắc bệnh
vàng da, chữa trị lâu ngày mới hết.
Suối Mã Đà với hai nhánh nhỏ là suối Ràng và suối Rạc là những con suối
“giết người”. Nước suối đục ngầu pha
màu đỏ chảy như thác. Cây mã tiền mọc thành rừng trên đầu nguồn dòng suối. Trái
mã tiền rất độc rụng đầy theo dòng suối, cá chày ăn phải trái mã tiền bị say
chất độc và chết tức khắc. Những con cá chết dạt theo dòng nước xiết, miệng há
hốc, mắt ứa máu tươi như những con người bị giết oan. Trái đười ươi rụng trên
mặt đất ăn mát ruột nhưng cũng dễ gây bệnh sốt rét vì nước bẩn thấm vào.
Chủ
đồn điền người Pháp Oderra trồng cao su ở Rạch Đông (thuộc xã Thiện Tân, huyện
Vĩnh Cửu) có rất nhiều vợ, trong đó bà Chanh được ông ta yêu quý nhất. Một buổi
sáng bà Chanh đang bơi thuyền dạo chơi trên sông Đồng Nai thì bất ngờ con sấu
đỏ mũi nổi lên, quẫy đuôi hất bà nhào xuống sông. Để trả thù cho vợ, Oderra
thuê người ngăn dòng Rạch Đông rồi lừa con sấu đỏ mũi vào đó để bắt sống.
Oderra tìm thấy trong bụng con sấu dữ, tất cả nữ trang đắt tiền của vợ mình.
Trên
đây là những câu chuyện của Mã Đà vào những năm 1920 -1930. Ngày nay, “huyền thoại Mã Đà” đã đi vào quá khứ.
Vùng đất này nay thuộc địa bàn của huyện Vĩnh Cửu có dân cư tập trung sinh
sống.
“Ông khách cho cây” là chú Tư Lợt – Giám đốc
Lâm trường.“- Mầy mua mấy khối ?” Tôi
đưa ngón tay đeo 2 chỉ vàng:“– Cháu có
chừng này!”- “Mầy qua tài vụ nhờ đổi ra tiền, duyệt 6 khối, chuyển nhà máy cưa,
nói quy cách, họ cưa cho!”.”-Dạ! Qui cách là gì, Chú?”, “- Thầy giáo mà lơ
mơ, là 4x8, 6x12, 7x14… làm cột, làm kèo!”. Chú Tư cho xe chở về tận nhà,
kiểm tra thực tế gần 8 khối, nào ván, nào gỗ đủ cỡ. Bán bớt 3 khối đã hơn vốn,
tôi làm căn nhà gỗ, mái ngói đẹp nhất xóm, nhưng cửa sau chỉ có khung, thiếu
ván. Dọn về nhà mới, mệt ngủ say, em học trò ở trọ - cháu cô Dung: “- Đôi dép mới đây, bây giờ… biến mất!”.
Đêm đó trộm quơ hết áo quần, còn lại chỉ vàng trả công thợ, mất luôn! Mất luôn
đôi kính cận thị của Thái, đúng là “nhất
y nhất quởn”. Thầy cô cứu trợ khẩn cấp, mua lại kính cho Thái, có quần áo…
đi dạy.
Niên khóa 1985-1986, Thành lập trường PTCS Ngô Quyền, được tách ra từ trường Bàu Hàm 2, do cô Phạm
Thị Bím làm hiệu trưởng, thầy Nguyễn Văn Hiếu là hiệu phó.
Tôi và Thái chuyển sang dạy ở đây. Trong kỳ Đại hội công nhân viên chức,
tôi được bầu làm thư ký công đoàn. Do bất đồng trong nội bộ ban giám hiệu,
phòng Giáo Dục điều chuyển thầy Hiếu đi dạy ở xã Hưng Lộc. Thiếu người phụ
trách chuyên môn, phòng Giáo Dục quyết định tôi làm hiệu phó.
Cả nhà tại Dầu Giây – 1983
Ngã ba Dầu Giây thuộc xã Bàu Hàm 2, huyện Thống Nhất, Tỉnh Đồng Nai, nằm trên quốc lộ 1A và lộ 20 đi Lâm Đồng, Đà Lạt. Nhiều bà con từ Đại Lộc, Duy Xuyên, Thừa Thiên, Quảng Trị di tản vào đây gia tài mất hết, các em làm gì có giấy khai sinh? Tôi bảo lãnh để gia đình bổ túc sau, cho kịp năm học mới. Họp hội đồng, tôi bị phê bình! Sao lại tổ chức “bổ túc văn hóa”? Tôi được Nông trường cao su Dầu Giây và trạm CSGT 17 mời dạy “bổ túc” cho cán bộ, mỗi tuần ba buổi tối.
1985
Tôi bị bệnh mấy năm nay, đi tiêu ra máu, người nói viêm đại tràng, kẻ
khám trỉ nội, trỉ ngoại lung tung, thân thể gầy còm, đạp xe không nổi lên dốc
trường, cân nặng chỉ còn 45 kí. Don vệ sinh văn phòng, tôi thấy mấy lọ “Flagyl” – rối loạn tiêu hóa – uống đại
mấy liều, không ngờ bệnh thuyên giảm hẳn và hết đến bây giờ! thật là “phước chủ, may thầy”.
Mấy tháng sau, cô Bím xin chuyển về Thái Bình, thầy Trần Bất Diệt làm
Q.Hiệu trưởng, nhưng thầy Diệt dạy cấp 1, thiếu người điều hành cấp 2. Phòng
Giáo dục điều thầy Nguyễn Đình Phi về làm hiệu trưởng nhưng thầy xin trở lại
PGD! Khánh Phương đã hết lớp năm, được
chọn vào đội tuyển học sinh giỏi toán, thi tỉnh được giải nhì.
Ngồi uống cà phê với anh Hòe, tôi nói chơi là định bán nhà. Ông thông
gia anh Hòe hỏi tới, tôi nói 8 chỉ vàng, lấy lại tiền làm nhà vì đất của Nông
trường cấp! Không ngờ về nhà, ông ấy mang vàng qua năn nỉ, mua cho con trai sắp
lấy vợ. Vậy là bán!
Tôi mua lại mảnh đất của chị Lệ Phương hết 3 chỉ, trước khi làm nhà là
làm… “cầu tiêu”, chạy vào lô cao su, là nỗi ám ảnh không
nguôi. Nhớ đến cảnh cả nhà “nín” ỉa,
mà rơi nước mắt!
Thục Nghi đang được bồi dưỡng học sinh giỏi Văn lớp 9 ở Trảng Bom, về
nhà không biết ba mẹ dọn đi đâu?
Căn nhà mái tole, nhưng mát mẻ, hai cây xoài trước sân, mảnh vườn nho
nhỏ. Quán tạp hóa trước ngõ, mắm, muối, dầu chè… Tôi mua chiếc TV màu, mỗi tối
cả xóm đến xem, nói cười rộn rã…
Địa phương cho ruộng canh tác. Xóm Hố linh thiêng, hầu hết là bà con
Quảng Nam, anh Tình mì Quảng, anh Pha (Trung úy), anh Khánh (Đại úy – nay ở Mỹ),
anh Tòa (Đại úy – cha của Hoài Linh), anh Năm Bọ, Dí Bá (Dũng, Mận…), anh Đông
xe lam, chú Sự, anh Hòa, Bác Sáu Khang (đã
mất) có vườn sầu riêng, chôm chôm ngút mắt… Chỉ gần hai năm thôi, bao nhiêu
điều không may đã xãy ra, trên hai đầu dốc xóm Hố. Con chú Vạn – bé Chù - lon
ton chạy theo cha phơi lúa bị tai nạn, xe be đâm vào nhà chú H. lái xe và cả
những người ngồi trên cabin chết cháy, Thục Nghi lượm củi cao su, tắm hố bom
suýt chết đuối, may nhờ các anh đi cùng… nắm tóc kéo lên! Lần khác, qua nhà anh
T. bên kia đường, mượn bao về gặt lúa, Nghi bị xe “húc” văng vào lề đường bị thương. Tan trường, tôi chở Khánh Phi về
ngang nhà chưa kịp dừng, Phi nhảy xuống chạy băng qua đường, tiếng xe ô tô
phanh gấp rít lên mặt đường nhựa…
Đi họp ở Phòng Giáo dục, tôi ngồi trên xe lam, xe mất phanh lao vào xe
tải, hoảng hồn tôi phóng xuống, “tụt”
cả mảng da tay, còn xe lam ủi vào đống cát bên đường, mọi người bình an vô sự!
Nằm nhà với cánh tay băng bó, buồn tênh. Bỗng Thục Nghi la lên hốt hoảng:”- Phi rớt giếng Ba ơi!” Tôi nhảy xuống
vớt con lên, nâng Phi lên khỏi đầu, mọi người thả dây kéo hai cha con, may
giếng đào, nước cũng không sâu.
Cái dốc xóm Hố đầy tai ương, Thục Nghi (10 tuổi) đạp xe lên chợ, xe
không phanh, lúc về thả dốc, chạy như tên bắn, quá nhà lên đầu dốc bên kia hơn
trăm mét mới dừng!
Phạm Hữu Phước lúc này chuyển nghề, làm anh phó nhòm chụp hình đám cưới:”- Mầy có nghe chương trình ODP không?”
Anh Tòa, anh Khánh, anh Pha góp ý:“- Đi
Biên Hòa xem sao?” Kéo nhau photo giấy tờ ra trại, gởi sang Bankok, tôi cải
tạo chưa đủ ba năm (20/6/75 – 20/11/77). Mong ngày ra đi, tìm tương lai cho
con.
……..
“Đánh Xuân Lộc không được, giờ đây Quân Đoàn 4 tập trung quân đánh vào
khu vực Ngã Ba Dầu Giây, là vị trí trách
nhiệm trấn giữ thuộc Trung Đoàn 52 Bộ Binh của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng. Muốn đi vòng
Xuân Lộc để tiến về Biên Hòa và Sài Gòn, thì Quân Đoàn 4 phải đánh bứt các vị
trí của Trung Đoàn 52, để từ đó theo Quốc Lộ 20 tuôn xuống phía Nam. Đại Tá
Dũng và chiến sĩ của ông ở trong một tình thế thật hung hiểm, số ít đối đầu với
số đông đã đành, mà địa thế khá là bằng phẳng và trống trải ở khu vực trách
nhiệm, không thuận lợi cho một cuộc phòng thủ lâu dài. Phía cộng sản, với giá
nào cũng phải đánh thủng chiến tuyến, dù có phải thí quân tàn bạo đến như thế
nào đi nữa. Ngày 13.4.75, trận đại chiến giữa Trung Đoàn 52 và quân quân bắt đầu
tái diễn. Vẫn một trận bão pháo kinh khủng trút vô giới hạn xuống vị trí của
Tiểu Đoàn 1/52 . Dứt pháo, Trung Đoàn 33 cộng quân thuộc Sư Đoàn 6, hò hét xung
phong biển người lên giao thông hào của chiến sĩ Tiểu Đoàn 1/52 đang trấn giữ
ấp Phan Bội Châu, vừa chống trả vừa lùi dần về phía Ngã Ba Dầu Giây. Đại Tá Dũng lệnh cho Tiểu Đoàn 3/52 của Thiếu Tá
Mỹ cấp tốc hành quân đến giải vây cho Tiểu Đoàn 1/52, rồi cùng kéo về ấp Nguyễn Thái Học. Nóng lòng cuộc tử
sinh của chiến hữu, hai đại đội còn lại của Tiểu Đoàn 3/52 suốt đêm lầm lũi
xuyên qua những cánh rừng lá thấp bụi rậm giăng mắc, để cuối cùng bắt tay được
với 1/52. Hai tiểu đoàn quân số đã sụt xuống con số đau lòng, chỉ còn 1/3 số
tay súng khỏe mạnh, cùng bảo vệ nhau kéo ra khỏi Ngã Ba Dầu Giây, trong khi đó thì Tiểu Đoàn 2/52 đã tách ra khỏi
Trung Đoàn để về trấn giữ tỉnh lỵ từ mấy ngày trước theo lệnh của Chuẩn Tướng Đảo.
Như vậy, Đại Tá Dũng chỉ có thể xoay sở với hai tiểu đoàn thiếu của ông để
chống ngăn cơn sóng hung bạo của cả một sư đoàn lên đến 9 tiểu đoàn.”
…………
“…. Trận đánh đẫm máu tại ngã ba Dầu Giây: Chiều ngày 15 tháng
4/1972, bộ tư lệnh quân đoàn 4 CSBV điều động sư đoàn 341 tổng trừ bị phối hợp
với 2 trung đoàn của CT7, 1 lữ đoàn chiến xa T 54, một số tiểu đoàn đặc công,
tổng quân số khoảng 20 ngàn, đã đồng loạt tấn công cường tập vào tuyến phòng
thủ trung tâm của chiến đoàn 52 tại ngã
ba Dầu Giây. Sự tương quan về lực lượng quá chênh lệch, 1 người lính của
chiến đoàn 52 phải chống trả với 10 Cộng quân, ngoài ra đối phương còn áp đảo
về hỏa lực pháo binh.
Trận chiến diễn ra thật khốc liệt ngay từ những giây phút đầu. Với chiến
thuật sử dụng pháo để khống chế chiến trường, sau đó tung bộ binh tấn công bằng
biển người có chiến xa yểm trợ, sau 3 giờ giao tranh đẫm máu, Cộng quân đã tràn
ngập các cụm điểm phòng ngự của chiến đoàn 52, chia cắt sự liên hoàn trong
phòng thủ của các đơn vị thuộc chiến đoàn này dọc theo Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20.
Một điều không may xảy ra cho chiến đoàn 52 là do trời tối, 4 chiến xa M 48 lại
bị trúng đạn pháo kích, không quân khó quan sát để thực hiện các phi vụ oanh
kích, nên sự yểm trợ hỏa lực của thiết giáp và không quân cho các vị trí của
chiến đoàn 52 gần như bị tê liệt.
Sau khi đã chia cắt lực lượng của chiến đoàn 52, Cộng quân tung đợt tấn
công từ bốn phía để cố chiếm lĩnh trận địa. Trước áp lực mạnh và lối đánh thí
mạng tàn bạo của đối phương, phòng tuyến ngã ba Dầu Giây bị vỡ, lực lượng của
chiến đoàn còn khoảng 2 đại đội đã mở đường máu vượt thoái được. Dù chiếm được
ngã ba Dầu Giây sau 6 giờ ác chiến, nhưng đến 1 giờ sáng, CSBV đã bị tổn thất
nặng khi hai trái bom khổng lồ Daisy Cutter - gắn trên C-130 do 1 phi công VNCH
điều khiển, được thả xuống khu tập trung quân của các sư đoàn chủ lực: Toàn bộ khu vực thị trấn Dầu Giây rung
chuyển như một trận động đất lớn, đèn phụt tắt, làn sóng vô tuyến của CQ tức
khắc im tiếng, bộ chỉ huy sư đoàn 341 và khoảng 7 ngàn quân CSBV bị tiêu diệt
bởi hai quả bom này.“(Nguồn: Wikipedia)
Hỡi các vong hồn tử sĩ là người Việt Nam. Nguyện cầu anh linh các vị sớm
siêu thoát! Về cõi Vĩnh Hằng.
Nơi này không ổn, nhân dịp trường Ngô Quyền qui hoạch, phân lô cho giao
viên làm nhà, lại cần mua bắp trả nợ “đối
lưu” xi-măng, làm nhà cho Lũy. Tôi bán nhà cho cô T. công tác tại phòng
Thương nghiệp, huyện Thống Nhất, chưa được hai tháng, cô T. bị xe tông chết
trước nhà! Vợ chồng Nguyễn Đình Vạn (Đã
mất 3/2021) mua lại cũng đầy tai ương…
Chú Tám Hiền (Đã mất 1995)
hướng dẫn mua vật liệu xây dựng với giá phân phối, anh Năm Hường thi công, nhà
xây không tô, mái tole. Rút kinh nghiệm, cửa nẻo đàng hoàng, có chuồng nuôi
heo. Tôi dạy thêm tại nhà, học trò nghèo trả học phí bằng chôm chôm, em nào khó
quá thì thôi. Hè đi bồi dưỡng học sinh giỏi toán lớp 9 ở Huyện, việc trường bận
rộn luôn tay.
Tân gia
Cuối niên khóa 1987 – 1988, tôi được phân công làm phó chủ tịch hội đồng
coi thi huyện Vĩnh Cửu. Vừa về đến nhà nhận được điện tín của Lũy:“Ba đã mất, anh về ngay” – Đó là ngày
30/5/1988 (15/4 âm lịch, Mậu Thìn).
Mượn thêm ít tiền cùng hai con Khánh Phương, Khánh Phi về tang ông Nội.
Nhờ anh Trang xin xe tải quá giang, đến Phan Rang xe hỏng, ba cha con thuê
phòng trọ qua đêm, nhờ xe đi tiếp về Đà Nẵng. Đến nhà Lũy, Ba đã được an táng
bên mẹ tại Cẩm Hà! Vậy là không thấy mặt cha lần cuối!
Hè 1990, gần mười năm thăng trầm ở đất Dầu Giây, Khánh Phương đã học lóp
11, Thục Nghi được tuyển thẳng vào lớp 10, Khánh Phi lớp 6, Khánh Vỹ lớp 5. Tôi
gửi Khánh Phương ở nhà anh Thăng – chị Thanh, anh Thăng dạy toán có tiếng ở
trường Nguyễn Trải – Hố Nai – Biên Hòa.
Những câu chuyện vượt biên lan truyền, tài công có giá được mang theo cả
gia đình. Cả nhà lên Saigon, tá túc nhà chị Mỹ - anh Vũ, chờ ra đi. Chiếc ghe
mỏng manh, chèo tay (taxi) đón cả nhà dưới cầu Hiệp Ân – Quân 8, tôi mang theo
chiếc la-bàn, hải đồ do Nguyễn Văn Vy (cùng khóa 22) giao cho. Nước ngược dòng,
tay chèo ra sức, đến điểm hẹn đã quá nửa đêm, bốn bề mênh mông nước, rừng ngập
mặn ngút ngàn, không một bóng người. Mặt trời đã ló dạng ửng hồng, anh lái
xuồng con ngơ ngác, Biết đã bị lộ, tôi năn nỉ chở về, hứa cho anh chèo ghe hết
những gì mang theo… Gần trưa, tấp vào bến phà Bình Khánh, phía Nhà Bè, tay tôi
vẫn ôm khư khư giỏ lát có la bàn, cả nhà phờ phạc, vợ con đói meo, lên xe lam
về lại nhà chị Mỹ.
Phạm Hữu Phước “mách” mối
khác, tôi gởi nhà cho Thầy Nguyễn Ngọc Quý. Gởi xe đạp, chiếc TV 9”, mấy con gà
cho Phước, cả nhà lại lên đường. “Hướng
dẫn viên” mang giúp hành trang, mời lên xe đò. Đến chợ Thái Bình, ngồi chờ
đến tối không thấy ai hỏi! Vậy là áo quần tốt nhất mang theo, bay vù theo “hướng dẫn viên”. Về nhà, nhận lại những
đồ đã gửi cho Phước, chỉ thiếu mấy con…gà! Sau chuyến này, Thái, Phương, Nghi
sợ hết hồn, không dám nghĩ đến chuyện ra đi!
Những lần khác, tôi dắt theo Khánh Phi (12), Khánh Vỹ (11 tuổi) xuống Cần Thơ, Rạch Giá, Cần Giờ, Tân Cảng…
con ngây thơ, đi theo ba là thích. Ngủ bến xe, trên con tàu đang sửa chữa ở bến
Ninh Kiều, cơm hàng cháo chợ… Tàu còn trên sông, nghe súng bắn đùng đùng, con
tưởng pháo Tết! Rồi lại về Dầu Giây, không dép, không giày…
Nhân dịp cậu Bốn vào chơi, tôi theo cậu lên Saigon, ghé thăm chị Bích –
(Anh Hà Cân - chồng chị, GĐ sân bay Tân
Sơn Nhất) – Chị Bích hợp tác đóng chiếc tàu, kinh doanh du lịch, nhưng chưa có tài công, chị gợi ý lên
giúp chị. Vậy là tôi xin nghỉ day một năm, không biết công việc thế nào, nếu “hỏng giò” thì chết!
Khi tàu đi vào hoạt động, ngoài tiền lương còn có tiền “tip” của khách, thu nhập gấp nhiều lần khi còn đi dạy. Bến tàu thuộc công viên Bạch Đằng – Saigon. Chú Bình (Đã mất 2018) – Công an đường sông – nhận đồng hương Quảng Nam, chú sốt sắng mời về nhà chơi. Tôi nói chú cho Thục Nghi, Khánh Phi ở nhờ đi học, hơn nữa chú thường vắng nhà, cô Huệ đơn chiếc. Nghi lớp 11, Phi lớp 8.
Tôi xin đi học lớp thuyền trưởng tàu sông hạng 3, có sự giúp đở của chú
Bình, tôi lái tàu kiêm hướng dẫn viên bất đắc dĩ, khách đủ quốc tịch. Một đoàn
khách Đài Loan, trong đó có ông Simon Chiu, tìm hướng đầu tư. Thời gian này nhà
Nước chưa cho phép người nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam. Bằng tiếng Anh đủ
hiểu, tôi góp ý nhờ người thân tại Việt Nam. Ông Simon đề nghị tôi giúp tìm
hiểu thủ tục và gợi ý giúp việc cho ông, mời tôi đến văn phòng 240 Võ Văn Tần,
Quân 3…
Tôi chỉ bận rộn vào ngày lễ hay ngày nghỉ. Thường từ 16, 17g là có khách, đôi khi khách tự tìm đến hoặc do nhân viên văn phòng Vidotour, mỗi chuyến 2,3 tiếng đồng hồ cả đi và về, mỗi giờ từ 10 đến 15 dollars. Được sống ở Saigon là mong ước, có môi trường tốt cho con học hành.
Tàu du lịch Vidotour trên sông Saigon
Qua Tết 1991 (Tân Mùi), những chiếc tàu du lịch kinh doanh hợp pháp, bị canh tranh bởi những chiếc xuồng con từ Thủ Thiêm tràn qua, hấp dẫn khách du lịch hơn, đồng thời giá rẽ. Tiếng Anh của anh em thuyền chài thật siêu đẳng, nếu muốn nói 5 dollars, thì giang hai tay ra, miệng nói “Ten dollars”, sau đó dùng bàn tay chặt “bụp” ở giữa, vậy là “Tây” hiểu liền, OK lia lịa.
Tháng Giêng bắt đầu ế khách, chị Bích quyết định đột ngột: “bán tàu!”
Tôi bất ngờ, hốt hoảng như lăn xuống địa ngục! Lấy gì cho con ăn, học ở Saigon?
Nhà thuê của chú Đạt? Không lẽ về Dầu Giây, tiếp tục gõ đầu trẻ?
Công ty Tân Việt Thành (1995)
Sực nhớ đến ông Đài Loan – Simon Chiu. Tôi tìm đến 240 Võ Văn Tần, Q.3. Ông Simon niềm nỡ, vào thẳng vấn đề:“Giúp Tùng (em cô Hồng – người thân ông Simon) xin giấy phép kinh doanh, thuê mặt bằng, lập xưởng sản xuất “Beachball” – Vợt bóng nước – Tìm nguồn nguyên liệu, ván ép, liên hệ công ty xuất nhập khẩu (Bitex – Q.6). Tôi thở phào nhẹ nhỏm, có quới nhân phù hộ cho gia đình tôi!
Khi thành lập công ty Tân Việt Thành, ông Simon mua căn nhà 382/9 Nguyễn
Thị Minh Khai, Q.3 làm văn phòng. Tôi liên hệ thuê xưởng, thuộc Kho vận Thủ Đức
để gia công, hàng xuất sang Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha…
Tháng lương đầu tiên, ông Simon gửi tôi một phong bì lịch sự: 200 USD
(bằng 4 chỉ vàng), hơn hai triệu đồng (10.500 VND/USD), gấp 10 lần chị Bích trả
lương. Vậy là các con có điều kiện học hành, tôi bàn với Thái xin nghỉ dạy để
lo cho các con, tiếp tục thuê căn nhà của chú Đạt ở Q.5 …
Năm 1991, Khánh Phương thi đại học hỏng, tôi xin chị Bích cho Phương phụ
bán cà phê ở sân bay Tân Sơn Nhất, chờ năm tới thi lại. Rồi cho xuống xưởng Thủ
Đức làm công nhân, đi làm bằng xe đạp 30 cây số. Hơn một tháng, Phương đã ý
thức việc học là quý. Năm sau Khánh Phương đỗ ba trường và đã chọn đại học kinh
tế. Năm 1992, Thục Nghi tốt nghiệp cấp 3, tôi xin ông Simon cho Nghi vào làm kế
toán, vừa học vừa làm… Xin cho Thái làm cấp dưỡng ở văm phòng, đang làm cô giáo
lại chuyển nghề đi chợ, nấu ăn! Cũng vì cuộc sống mà thôi.
Thời gian sau, ông Simon có đơn đặt hàng làm “swimming Pole” – Hồ bơi trẻ em – nhập thêm máy móc, nguyên liệu về
gia công, tuyển thêm công nhân và huấn luyện, chia ca làm suốt ngày đêm…
(Đến bây giờ, ông SIMON CHIU vẫn là
NGƯỜI BẠN LỚN của gia đình tôi. Thật đau buồn khi nghe tin ông SIMON đã qua
đời, sau cơn bạo bệnh, ông SIMON mất tại Đài Loan ngày 21.10.2012, hưởng dương
52 tuổi)
Hè năm 1993, gia đình tôi chuyển lên chung cư Cô Giang, Q.1 – cũng của
chú Đạt – Khánh Phi lớp 11 và Khánh Vỹ lớp 10, chuyển hai con sang trường Ernst
Thalmann đường Trần Hưng Đạo, Q.1. Tôi và Thái quyết định bán căn nhà sau
trường PTCS Ngô Quyền, Dầu Giây, tiền bán nhà chỉ mua được chiếc xe “cánh én”. Trả lại cho chú Đạt, tôi thuê
nhà khác tại đường D2, khu Văn Thánh. Cuối năm 1995, ông SIMON CHIU giúp cho
vay tiền mua nhà ở Thủ Đức, trừ dần vào lương mỗi tháng. Tôi thuê thợ sửa chữa,
quét vôi tươm tất và không cho ai hay, kể cả Thái và các con. Khoảng 20 tháng
Chạp, tôi thông báo: Dọn nhà!
Trưa 30 Tết (Ất Hợi), chuẩn bị
cúng rước ông bà, đột nhiên có bà cụ đến khấn vái và thắp hương vào bồn hoa nhà
tôi, hỏi ra đó là mộ con trai cụ! Sau đó, phát hiện sau nhà còn hai ngôi mộ
nữa. Đây là khu nghĩa địa, tôi đề nghị góp phần để cụ cải táng. Tôi đã quá vội
vã không tìm hiểu kỹ trước khi mua nhà. Khi nghe bác Huệ - cùng làm chung giới
thiệu – đồng thời cũng vì háo hức với tâm trạng ước ao “ an cư – lạc nghiệp”.
Ra Tết, hơn 12 giờ khuya, điện thoại reo vang nghe tin Khánh Phương bị
tai nạn, tôi chạy vội xuống bệnh viện 115, Khánh Phương bị chấn thương đầu,
đang chụp CT. Phương đi học về, không may ủi vào xe ba-gác chở sắt, người đẩy
xe bị thương, đứt ruột! Phải lo cho người ta, thỏa thuận đền 5 triệu đồng, đến
khi vay được tiền đã trể hẹn, người ta đòi 10 triệu, phải vay nóng, khi có đủ
tiền, người ta lại đòi 15 triệu! phải vay thêm với lãi suất 20%/tháng. Không lẽ
vì mình quá biết điều nên bị bắt chẹt chăng? Vậy là lãi mẹ đẻ lãi con, nợ vây
quanh!
Tháng 9/1996, tôi cùng Tùng theo ông SIMON tham dự triễn lãm tại Đài
Bắc, Đài Loan. Lần đầu tiên ra nước ngoài, cái gì cũng lạ! Thật ra, Saigon
trước đây phồn thịnh hơn Đài Loan rất nhiều, người Đài Loan tác phong nhanh
nhẹn, chỉ sử dụng hàng hóa, thuốc chữa bệnh Đông y, kể cả xe máy do Đài Loan
sản xuất. Mô hình hợp tác của Đài Loan rất hay, độc lập về vốn, mang tính cổ
phần, mỗi nhà sản xuất một bộ phận, góp lại thành sản phẩm hoàn chỉnh, Ban quản
trị có trách nhiệm tìm đầu ra, xuất khẩu và phân phối lợi nhuận theo tỷ lệ cổ
phần, minh bạch và hữu hiệu.
Họa vô đơn chí, vì bảo vệ cho công
nhân bị mạ lỵ bởi cán bộ Đài Loan, tôi xin nghỉ việc. Tranh đấu cho
quyền lợi công nhân là mâu thuẩn với quyền lợi của ông chủ! Hay vì tự ái dân
tộc? Trong lúc này, tôi lại đứng tên giúp cho ông Quách (Đài Loan), lập doanh
nghiệp gia công thiết bị vệ sinh ở Q.3, đưa Luỹ làm kế toán. Quản lý thị trường
kiểm tra có dấu hiệu bất minh, hàng hóa bị tịch thu, tôi liên lụy. Bao nhiêu
chuyện xui xẻo đã xãy ra, từ ngày mua nhà trên gò nghĩa trang Thủ Đức! Bởi vậy,
không tin phong thủy là không xong, nhất là nhà cửa.
Thời gian này là những ngày đen tối trong cuộc đời tôi. Khi ở Dầu Giây,
nghèo nhưng thanh thản đầu óc, không nợ nần, ngày ngày lên lớp, vui với học
trò. Năm 1998, ông SIMON giới thiệu tôi giúp việc cho ông KUO, làm dụng cụ kim
khí, xuất đi Nhật. Thục Nghi nghỉ làm, học thêm kế toán, Khánh Phi thi kiến
trúc hỏng, tôi đưa lên làm công nhân xưởng ông KUO, nên duyên chồng vợ với Chi.
Tình cờ gặp lại Mỹ Dung ở Nhật về. Vợ chồng Mỹ Dung nhờ tôi tìm thuê mặt
bằng, nhập hàng “second-hand” máy
cày, máy xới từ Nhật để bán. Chuyến hàng đầu tiên lãi lớn, vợ chồng Mỹ Dung cho
tiền hoa hồng, tôi sĩ diện không lấy. Từ Nhật, chồng Mỹ Dung gọi về, đề nghị
tôi trực tiếp tham gia, tôi xin nghỉ bên ông KUO. Tôi cùng chú H. – em chồng Mỹ
Dung, ra Bình Chánh. Giống như khi gặp ông SIMON, tôi giúp làm mọi thủ tục kinh
doanh, thuê, mua mặt bằng, liên hệ khách hàng, thành công ngoài mong đợi, vợ
chồng Mỹ Dung hứa hẹn sẽ giúp đở, nhưng không ngờ sau khi đã vào hoạt động, tôi
bị cho nghỉ ngang không báo trước, không rõ lý do. Thế là “hụt cẵng”!
Năm 2000, Khánh Phương ra trường, năm sau đám cưới Phương – Hiền tôi thuê xe đón bà con, anh em từ Dầu Giây
lên dự.
Năm 2001, Nguyễn Văn Trọng (K22) và tôi chung nhau mổ tiệm cửa sắt Nam
Dương. Nguyễn Trọng Hùng ứng năm triệu để thi công cửa sắt công trình cho Hùng,
vật liệu biến động, lãi thành lỗ, thu nhập không đủ trả tiền thuê mặt bằng. Tôi
bị ho liên miên, công trường Bình Dương nắng như đổ lửa, đêm về nằm sốt li bì,
sáng ra vẫn chạy xe hơn hai mươi cây số đi làm. Khám bệnh, tràn dịch màn phổi –
lao! Trị bệnh chín tháng trời, Trọng rút lui, bán máy hàn, máy khoan lại cho
tôi, nhưng chưa có tiền trả cho bạn!
Tháng 7 năm 2001, cưới vợ cho Khánh Phi, tôi đi không nổi, phải mang
theo thuốc, cùng vợ chồng cô Ngọc, Tường ra Phan Rang rước dâu…
Đám cưới Khánh Phi - Ngọc Chi và sau 15 năm
Giao lại tiệm sắt Nam Dương cho Phi, con thiếu kinh nghiệm, lại một phen khốn đốn nợ nần. Từ ngày mua nhà ở Thủ Đức, chuyện không may xãy ra liên miên, đành bán nhà. Có lúc nghĩ quẩn, đổi nhà lấy rẫy ở Đắc Nông hay về lại Dầu Giây… Những ngày cuối năm 2001, nơm nớp lo âu, giao thừa vẫn có người đến đòi nợ!
Ngày 07/01/2002, Đám cưới Thục Nghi.
Ngày đám cưới Khánh Phương - Võ Phùng Ngọc Hiền
Ngày 19/4/2002 Chi sinh con đầu lòng – Nguyễn Trần Khánh An (Lip).
Nguyễn Trần Khánh An
Thục Nghi sinh Ôn Mẫn Nhi (28/8/2002 - bé Dế).
Ôn Mẫn Nhi
Hai tháng sau, cháu nội đích tôn Nguyễn Võ Khánh Toàn (14/10/2002 - Bill) chào đời.
Mãi đến tháng 10/2002 mới bán được nhà, trả nợ còn sáu mươi triệu. Tìm nơi nào với số tiền này ở đất Saigon? Nhưng may mắn, tôi mua được căn nhà cấp bốn ở Phường Tân Chánh Hiệp – Q.12, giá tám lăm triệu, họ đồng ý cho nợ hai lăm triệu! Thật mà như mơ. Dọn về nơi ở mới, lòng thơ thới tôi hết mọi âu lo, sức khỏe dần hồi phục, sau gần một năm chữa bệnh lao. Tôi đăng báo tìm chỗ dạy kèm, luyên thi… Cái ý nghĩ :”Sống bằng gì?” cứ ám ảnh mãi!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét