Thứ Sáu, 17 tháng 9, 2021

GIỌT NẮNG TRONG SƯƠNG : 117 - 176

 QUÊ NHÀ

     Lão Trạc nhìn quanh, không có gì! Những gì có thể bán được dù ve chai cũng không còn. Vợ đã bỏ lão về với ông bà gần năm năm nay sau cơn bạo bệnh. Bốn đứa con có nếp có tẻ, hai đứa con gái ra riêng từ ngày thành gia thất, lão sống vò võ một mình trong căn nhà gần như hoang phế bởi trái cà-nông mồ côi lạc đường trong chiến tranh.

     Hai đứa con trai bươn chải tận trong Nam, làm ăn kiểu gì đến Tết cũng không thấy ló đầu về. Đứa con gái kế theo chồng vào tận Bình Định. Hắn sống có hạnh phúc hay không mà biên thư cho lão:”Công đâu công uổng công thừa, công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan!”. Còn lại con Xí Út ở  cùng làng nhưng cũng ít khi về, thi thoảng thằng rể biếu lão bao gạo lúa mới hay xâu cá rô, cá diếc ướp muối phơi khô nó bắt ngoài đồng. Mỗi lần con gái bồng cháu ngoại về thăm, lão nhìn không ra Xí Út, hắn gầy nhom lại đen nhẻm như mọi núi, cười cười méo xệch chỉ thấy hai hàm răng!

     Lão chăm chút hai con gà mái đẻ dắt bầy con chạy lăng xăng, hai chân gà mẹ bươi nát gốc trầu hương, miêng kêu túc túc. Lão Trạc quơ tay ném cái chổi cùn, gà mẹ xù lông mặt đỏ gay lửng thửng dắt bầy con lon ton chíu chít. Hình ảnh vợ lão lom khom bên giàn trầu ngày nào hiện về trong tâm trí lão, hàm răng nhuộm đen từ thời con gái mỗi ngày một sáng bóng, đôi môi hồng thắm bả trầu. Bà về làm vợ lão năm mười bảy tuổi.

     Tục lệ ngày xưa cưới hỏi nhiêu khê, những ngày đi làm rể bên nhà bà, từ lăn lộn với ruộng đồng cùng con trâu cái cày đến lợp lại mái tranh chái bếp đều phải qua tay lão.    

     Ông cụ thân sinh của bà thuộc dòng nho gia thất cơ lỡ vận, hành nghề thầy lang bốc thuốc lẫn thầy địa lý xem giờ hung giờ cát, xem giò gà ngày mồng chín tháng Giêng để đoán vận mệnh an nguy cho gia chủ. Lộc cho thầy có khi đĩa xôi với nguyên con gà giò.

     Vợ lão dấm dúi mang ra ngoài đồng cho lão nhưng bà chẳng dám ăn chung, những ngày ấy lão đã cảm được tình của vợ. Mãi đến bây giờ bà đã quy tiên, lão cũng chưa hề nghe bà nói với lão những lời tình tứ yêu thương ngoài sự chăm sóc và lo toan phụng sự nhà chồng.

     Con bốn Loan chạy ào vào nhà như giặc đuổi:

-        Cha, Cha… Cha có nhà hông?

-        Tổ cha mi, tao không ở nhà thì đi đâu?

     Nhìn thân hình tiều tụy của lão Trạc, bốn Loan ôm cha khóc ngất.

-        Tết nhứt tới nơi mi không ở nhà lo chuyện ông bà bên

nớ, về đây làm chi?

-        Ông nội mấy cháu gởi về biếu cha chục bánh tráng.

Bánh tráng nước dừa Tam Quan - Bình Định ngon lắm đó cha… Còn đây mấy chục nem Chợ Huyện của thằng rể cha, để cha nhâm nhi với rượu Bàu Đá của làng Cù Lâm, An Nhơn.

-        Còn mi cái chi?

-        Con mang thân xác cha đẻ ra về thăm cha đây nì, Hì

hì…

     Lão Trạc cảm thấy lòng mình ấm lại nhưng rưng rưng, lão dọn bàn thờ bày hết lên trước di ảnh của bà:

-        Bà về đây mà chứng kiến tấm lòng hiếu thảo của vợ

chồng con gái bà, hắn về…

     Rồi lão bật khóc hu hu, bốn Loan ôm cha thổn thức hai hàng nước mắt thấm đm vào vai áo lão gầy gò.

-        Mi có tin gì của tụi nó không?

-        Ai cha? À, anh Hai anh Ba hả cha?

-        Tụi hắn đi biền biệt, không nhớ chi hết trơn là răng?

-        Hai ảnh bao lâu rồi không về hả cha?

-        Gần cả năm ni…

............

     Hai Long trải tấm hải đồ giữa sàn con tàu gỗ, chiếc hải bàn lắc lư theo nhịp sóng vỗ nhẹ, con tàu lướt êm trôi trên dòng sông Hậu, tiếng máy nổ đều đều như loãng tan vào trời nước mênh mông xuôi ra cửa Định An – Vĩnh Bình (Trà Vinh). Hai Long đi cải tạo gần ba năm, vốn rành nghề sông nước được mời làm tài công. Hai Long hỏi ba Lân:

-        Lòng anh rối bời, cha già một bóng ở quê nhà. Nhưng

Em không sống ở đây được, một là về quê với cha hai là theo anh. Nhưng cơ hội ngàn năm một thuở, mình không có vàng bạc chi, họ cho anh mang theo…

-        Tùy anh, em học hành dang dở.

     Đêm không trăng sao, vùng biển phương Nam ngày cuối đông gió êm sóng lặn, những chiếc lá dừa nước như đưa hai cánh tay lên trời tiễn biệt, chiếc tàu lặng lẽ cùng đoàn người băng mình ra khơi, những cánh chim thiên di tìm về miền đất ấm…

……

     Xí Út dừng tay quét dọn ngước nhìn bụi tre sau nhà, những chiếc lá tre khô bay bay trong gió la đà rơi rơi như những chiếc thuyền nan nhỏ bé xoay tròn trên mặt hồ. Hai Long cởi trần trùng trục mò lặn bỏ vào chiếc giỏ tre mang sau lưng những con ốc bưu đen thui, bốn Loan chạy theo trên bờ vói tay ngắt bông súng khoe nhụy vàng, cánh hoa viền tím ngát làm xao động mặt nước xanh trong. Bà Trạc cốc đầu Xí Út:

-        Tết nhứt tới nơi rồi không lo dọn dẹp, đứng đó mà

ngó. Mi bưng rỗ chóc (dong) qua nhà thím Xê, nghèo mà đẻ cho hung.

-        Chú Sinh nằm bệnh viện nửa tháng ni, con Phụng bỏ

học rồi chừ con đi học một mình. Hôm kia mưa giông sét đánh chết con trâu, may hắn không chết.

     Cha nói:

     -“Họa vô đơn chí!” Bà bắt con gà xúc thêm ô gạo cho thím với mấy cháu. Không biết thời buổi chi làm lụng tối mặt tối mày mà ngóc đầu không lên. Nhà có thằng đàn ông chừ nằm một chỗ…

     Ông Trạc vứt tàn thuốc lá, lấy chân dí dí. Không biết ông nói đến chú Sinh hay ông nói với ông.

-        Còn mấy ang lúa gánh nộp cho Hợp tác xã hết rồi, gạo

đâu mà cho. Nửa bồ sắn lát dành ăn cho qua mùa giáp hạt. Ông không thấy…

     Bà bỏ giữa chừng, lấy khăn chặm mắt. Thằng Lân đi đâu về mặt lấm lét đưa cho ông Trạc cái túi màu đen:

-        Con lượm cái ni…

     Ông bà Trạc ngạc nhiên khi thấy xấp tiền với giấy tờ lẫn lộn, ông đổ hết ra trên mặt bàn lại rơi thêm chiếc nhẫn và đôi bông tai vàng óng. Mảnh giấy biên nhận của nhà may V.H và tên người đặt hảng cùng xã với ông.

     Ông gọi hết bốn đứa con, mắt đứa nào cũng sáng rực. Con Xí Út tính chồm lấy đôi bông tai, ông Trạc dịu dàng nói với con:

-        Nhà mình nếu có chừng ni cha sẽ mua cho mỗi đứa

một bộ đồ mặc Tết, mình sẽ mua thêm bánh tét thịt heo vui ba ngày xuân cho rôm rả, nhưng…

     Ông nhìn bà và chính ông cũng đang “đấu tranh tư tưởng” trong lúc gia cảnh ngặt nghèo, những khuôn mặt đen đúa gầy nhom của con ông với đôi mắt háo hức ước ao mong được như những đứa trẻ con nhà khác. Bà nhìn ông rồi bỏ ra sau bếp, chính bà cũng đang nghĩ ngợi mông lung, bà đốt nén nhang lên bàn thờ ông Táo rồi lên ngồi đối diện với ông, bà buông lời:

-        Của phi nghĩa để ngoài sân, của phù vân để ngoài

ngõ”.

     Rồi bà hắng giọng:

-        Ông coi người mất ở mô, trả lại cho người ta.

-        Tui cũng nghĩ vậy, nếu mình mất của có tiếc không

con?

     Thằng Long góp lời:

-        Con biết chị ni, con ông chủ nhiệm hợp tác xã…

     Ông Trạc khoác thêm chiếc áo dắt Long, Lân đến nhà người mất. Vừa thấy chiếc túi, con ông chủ nhiệm giật phắt trên tay ông Trạc, xỉa xói:

-        Đồ ăn cắp…

     Vợ ông chủ nhiệm từ trong nhà chạy ra nhìn con gái khư khư ôm chiếc túi vào lòng, giọng đẩy đưa mời cha con ông Trạc vào nhà. Giọng ông từ tốn chỉ tay vào thằng Lân:

-        Con tui lượm được, tui đem trả lại cho mẹ con bà. Bà

hỏi cháu có thiếu gì không?

-        Đủ rồi! Thằng ni học lớp với tui.

     Con bé chanh chua chỉ tay vào mặt thằng Long.

     Ông Trạc dắt hai con ra về, không hề nghe một lời cám ơn từ bà chủ nhiệm.

……… 

     Hai Long nhấp nháy đôi mắt dưới ánh nắng chói chang, lòng anh bồi hồi phơi phới niềm vui nhưng còn e ngại. Anh hồi hộp kéo va-li chậm rãi băng qua khu hải quan. Anh bỏ passport vào túi áo khoác, dòng người đón đưa huyên náo sảnh khách đến ở sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất khiến lòng anh cũng rộn rã lây. Hai Long lững thững đón taxi về khách sạn, anh cố dõi mắt mong tìm một khuôn mặt thân quen, nơi này là quê hương anh hay anh như những người khách lạ?

     Chiếc taxi vòng vèo ra khỏi trạm thu phí băng băng theo đường Nguyễn Văn Trỗi qua cầu Công Lý theo Nam Kỳ  Khởi Nghĩa về trung tâm thành phố. Anh muốn đi một vòng qua khu chợ cũ Tôn Thất Đạm, chợ chim chợ chó… Ngày Long “chạy chợ” Huỳnh Thúc Kháng không vốn liếng, chỉ làm “cò” mua đi bán lại Tivi, máy lạnh, quạt máy, cassette, cả đường, cả sữa… nuôi Lân ăn học.

     Những căn nhà một thời của chú Hỏa (Jean Baptiste Hui Bon Hoa) khởi nghiệp từ buôn bán ve chai trở nên giàu có như Bảo tàng Mỹ Thuật Thành phố, công trình kiến trúc cổ kính nằm ở khu tứ giác với bốn mặt đường Phó Đức Chính - Lê Thị Hồng Gấm - Calmette - Nguyễn Thái Bình, khách sạn Majestic, Bệnh viện Từ Dũ, Trung tâm cấp cứu Saigon… nay đã thuộc về tài sản nhà nước.

     Khung cảnh đã khác xưa, đêm nay anh sẽ lang thang in lại dấu chân mình trên những con đường quen thuộc, ngày mai anh sẽ bay về quê… Chỉ mới thoáng nghĩ sẽ được ôm cha, niềm cảm hoài dã dâng ngập lòng anh…

     Ánh nắng vàng ươm phản chiếu trên cánh bay chiếc Boing màu bạc, ngoài kia những tầng mây trắng như bông lướt qua, màu xanh da trời hòa lẫn màu ngọc bích của đại dương mênh mông, dòng sông quê hương anh như di lụa  viền quanh rặng núi xanh lam nhấp nhô dưới kia gợi trong anh sự kỳ vỹ và tình yêu tha thiết quê nhà.

 

MẢNH TRĂNG KHUYA

     Bà Hằng mở cửa sổ nhìn sang nhà chị Tám, giờ này lũ trẻ im ắng dưới ngọn đèn điện tù mù nghĩa là chị vẫn chưa về.

     Bà Hằng cũng theo chồng ra Quảng Trị, ông là cấp chỉ huy của chồng chị Tám. Thị xã Đông Hà chìm trong màn sương ẩm đục xen lẫn gió rét tàn đông. Những ngày giáp Tết Tân Hợi – 1971 thật bình yên, dòng sông Thạch Hãn xanh trong  lững lờ trôi xuôi về Cửa Việt.


Đường vô xứ Huế quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ

Thương em anh cũng muốn vô

Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang... (Ca dao)

     Bà Hằng vốn là cô giáo thời tiểu học của chị Tám, từ quê nhà miền Nam xa xôi gặp nhau nơi tuyến đầu Tổ quốc. Bà bước sang nhìn hai đứa con chị Tám mặt mũi lem luốc khóc như ri:

-        Bà tắm cho các con, Hồng Nhi lấy áo quần bà thay.

-        Áo quần mẹ chưa mua, chỉ còn đồ cũ thôi!

-        Mai bà dắt ra chợ mua cho con áo đầm thật đẹp, cho

Em Trung bộ quần áo mới.

     Căn nhà khu gia binh đơn sơ, ánh đèn điện vàng ệch. Đơn vị đã hành quân về hướng Khe Sanh từ mấy ngày trước, chị Tám buôn bán đồ Mỹ từ khẩu phần lương khô, gạo sấy, thịt hộp, ba-tê, thuốc lá, cà phê…

     Nghe tin chồng mất tích trong trận Hạ Lào. Từ hậu cứ Đông Hà, chị gởi con rồi tất tả lên Cam Lộ chờ tin. Đoàn xe nhà binh hối hả chạy ngược về hướng chị, chở theo thương binh cùng những người tù binh đã được băng bó ngồi xen lẫn bên nhau.

     Hồng Nhi ôm lấy bà mếu mó:

-        Ba con không về hả bà?

     Thằng Trung chạy lon ton, chiếc áo lính quá khổ, không mặc quần, hắn cùng đám trẻ con chơi trò “bịt mắt bắt dê”. Chú Rân “hậu cứ” nhìn ra bãi đáp trực thăng hét lên với  lũ nhỏ:

-        Đại bàng về rồi, ba tụi bay sắp về rồi! Tết muôn năm,

Hoan hô Tết muôn năm.

     Từ trên trực thăng chuyền xuống chiếc băng ca với một thân hình đầu cổ quấn băng loang máu đã sậm màu. Chú Rân chạy ào đến nhìn mặt rồi đưa hai tay lên trời chới với:

-        Ôi “đại bàng”!

     Bà Hằng chết điếng khuỵu xuống bên thi thể của chồng, bà ôm choàng thân thể của ông rồi dụi đầu vào mái tóc và khuôn mặt bất động.

     Khu Vĩnh biệt không chỉ có chồng bà, băng gỗ không còn đủ chỗ cho những người đã nằm xuống. Thị xã Đông Hà đìu hiu trong ngày đầu xuân, chiếc cầu bắc qua sông Thạch Hãn oằn mình dưới đoàn xe nhà binh chuyển quân ra mặt trận, phía tây về hướng Lao Bảo bừng lên ánh chớp sáng lòa của đạn pháo và tiếng rít lao đi của những chiếc phản lực cơ vang lên trong đêm đen mờ mịt.

     Bà chợt nhớ đến lần đi ủy lạo ở bệnh viện dã chiến Đông Hà, những người lính của đối phương bị thương lẫn chiến hữu của chồng bà đang được điều trị tại đây rên la đau đớn. Lòng bà bồi hồi xúc động, nhưng dù sao họ cũng được may mắn hơn chồng chị Tám, anh đã bị bắt hay thân xác đã chôn vùi nơi đâu! Chị lại bỏ con thơ đi tìm chồng và chờ tin trong vô vọng.

     Nơi đây bà Hằng và chị Tám đã không còn gì, bà ngồi bên chồng trong chiếc trực thăng bay vào sân bay Phú Bài, từ đó theo máy bay quân sự về Saigon. Ông đã ra đi bỏ lại đồng đội ngoài kia trong sự chiến đấu kiêu hùng lẫn bi thiết của cuộc chiến đẫm máu tương tàn. 

     Có bao nhiêu quả phụ được như bà, dù tan nát cõi lòng nhưng vẫn còn được ôm thân xác chồng khi ông nằm xuống, được ngồi  nhìn di ảnh của chồng. Bà như bừng tỉnh vì được may mắn hơn biết bao người, sự an ủi trong đớn đau và chia sẻ. Những người chiến sĩ vô danh của cả hai miền mãi mãi vùi xác thân trong rừng già, trong hầm hố hay trên chiến địa hoang tàn

     Bà Hằng tình cờ gặp chị Tám ở chợ thuốc tây chui Tân Định, chồng chị bị bắt làm tù binh và sử dụng như dân công hỏa tuyến, anh được thả về sau ngày tàn cuộc chiến.

     Anh Tám gặp lại bà mừng mừng tủi tủi lẫn xót xa khi nhớ đến cái chết anh dũng của người chỉ huy năm nào trên mặt trận Hạ Lào. Anh vẫn cung kính với bà như xưa, tình huynh đệ chi binh anh nguyện suốt đời gắn bó. Hồng Nhi xinh xắn với tuổi dậy thì nhanh nhẹn phụ mẹ phân loại thuốc tây, những gói quà gởi về từ nước ngoài. Em khựng lại khi ngờ ngợ đọc tên người gởi: Lê Trọng Rân…

-        Mẹ! Có phải chú Rân “hậu cứ” không mẹ?

     Chị Tám nhìn tên và địa chỉ người nhận từ tay Hồng Nhi, chị bỗng nghẹn ngào thảng thốt:

-        Ôi trời! Địa chỉ cũ của cô Hằng…

     Ký ức khu Bàn Cờ năm xưa gợi vào tâm trí chị con đường đi học len lỏi vào từng khu dân cư nghèo nàn nhưng thắm tình của người di cư. “Chợ Bàn Cờ” trưng bày hàng hóa dọc theo những con hẻm nhỏ, tan trường chị theo cô Hằng về nhà. Cô ở với mẹ, thỉnh thoảng chị mới gặp chồng cô, ông đi lính xa nhà…

     Sự rộn rã niềm vui và an bình trong những ngày Noel của thời thơ ấu đã khiến chị ngạc nhiên khi nghĩ về hiện tại. Những người hàng xóm hiền hòa quanh chị bỗng trở thành con người khác sau ngày đất nước hòa bình. Ông tám Lân chạy xe ba gác hay chị năm Na bán chuối chiên trở thành cán bộ, đã “động viên” gia đình chị và mẹ con cô Hằng đi kinh tế mới và hứa hẹn đủ điều. Họ không còn thân thiện như khi gia đình chị hoặc cô Hằng giúp đ họ trong những lần khốn khó. Bà Hằng không thể ù lì như chị, họ sợ đến cái “di ảnh” của ông. Chị hối hận khôn cùng khi không hỏi địa chỉ rõ ràng của bà, chỉ nghe loáng thoáng khu kinh tế mới Bù Đăng – Bù Đốp… Chị sai Hồng Nhi gọi cha về gấp. Anh Tám đang thiu thiu trên xe cyclo chờ khách, giật mình khi nghe con réo giật ngược:

-        Mẹ kêu ba về gấp! Về lẹ lên ba…

     Hồng Nhi leo lên xe, thân hình nhỏ bé của anh Tám vẹo qua vẹo lại trên yên xe cyclo trông như làm xiếc.

-        Anh thu xếp đi liền, lên Bù Đăng – Bù Đốp! Đường

trong miệng…

     Chị nói như ra lịnh, anh ngẩn người khi nghe rõ nguyên do rồi đạp xe trả lại cho chủ, vội vàng mang theo gói quà ra bến xe Chợ Lớn.

     Bù Đăng thuộc quận Đức Phong của tỉnh Phước Long (Bình Phước). Anh Tám dùng đủ loại phương tiện, từ Saigon xuống Thủ Dầu Một – Bình Dương lên Tân Uyên qua Đồng Xoài băng qua con đường đất đỏ ven rừng cao su bạt ngàn tìm về Bình Long. Anh đã từng cùng đơn vị trấn thủ nơi này, vùng chiến địa đã đi vào quân sử, máu xương của đồng đội anh và những người lính bên kia lẫn người dân Stiêng – Sóc Bom-Bo đã vun xới cho cây cỏ rừng Cát Tiên đượm xanh màu cây lá…

     Từng dãy nhà tranh nhấp nhô xa tít trên vùng đất bạt ngàn đã được khai hoang, những đoàn người đi ngược chiều anh râm ran chuyện trò bằng giọng Saigon chính hiệu nhưng đen đúa và lam lũ như người Stiêng! Không có ấp nào mang tên “Bàn Cờ”, chỉ có những tên nghe hào hùng như khi còn chiến tranh: Thống Nhất, Anh Dũng, Toàn Thắng, Vinh Quang…

     Cuối cùng anh cũng đến được nơi cần tìm. Ven con đường xe be cạnh lô cao su, cỏ tranh vươn lên che khuất hai nấm mộ đất hoang sơ. Ai đó đã khắc vào gốc cây cao su già: “Mộ phần mẹ con bà Lê Thị Lệ Hằng, tạ thế ngày 20.3  nhưng không ghi năm nào.

     Anh Tám quỳ lạy hương hồn người đã khuất, rồi đào giữa hai ngôi mộ hố nhỏ và trịnh trọng đặt gói quà của người đồng đội năm xưa từ bên trời Tây gởi về cho bà. Anh lẩm bẩm:

-        Dù sao bà cũng có nơi để về, “Sinh ký tử quy” và được sum

họp cùng ông!

     Gió đông về hiu hắt, lá cao su vàng úa rơi lác đác trên thảm cỏ xanh như những oan hồn còn nằm đâu đó giữa mênh mông rừng, dưới màu trời u ám của chiến trường năm nào.


GIÓ CUỐN BAY ĐI

     Út Nga vô tư cười ha hả, chị vô tư như suốt đời được sung sướng sống trong lầu son gác tía. Ba Dân xì một tiếng, ngó lơ mà đôi mắt như rưng rưng:

-        Đến bây giờ mầy cũng còn làm đầy tớ cho con mẹ

lựu đạn” đó hả? Trả dìa cho thằng con trời ơi của bả. Mầy không nghe lời, tao bỏ mầy luôn!

     Ba Dân nói xong cầm luôn cái giỏ lát, phủi đít nói đi về dưới.

-        Anh chưa nghe tui kể chuyện ni mới dzui…

     Bà già “lựu đạn” là vợ nhỏ của ông Sum - ông già anh em ba Dân. Hồi trước ổng làm thầu khoán ăn nên làm ra, mẹ ba Dân thường đi buôn gạo ra tận miền Trung, có khi nửa tháng mới về. Trong nhà tôi tớ đôi ba đứa, nhưng hai Thơm siêng năng được ông bà chủ tin cậy hơn hết, nghe đâu quê hai Thơm ở miệt Châu Đốc – An Giang, gái miền Tây gạo trắng nước trong, làn da trắng bóc. Dáng hai Thơm thon thả mình dây thanh tú, dù không đẹp lắm nhưng khuôn mặt dễ nhìn, nhất là cặp mắt đen huyền với làn mi rậm, lại ít nói ít cười. Từ ngày có hai Thơm nhà cửa như sạch hẳn ra, đồ đạc áo quần ngăn nắp đâu vào đó.

     Đôi khi ông Sum so sánh hai Thơm với bà vợ đen đúa tảo tần khuya sớm của ông. Ý nghĩ chợt thoáng qua vậy thôi nhưng khi nhìn hai đứa con, lòng ông ngậm ngùi thương cảm bà. Hai Thơm ân cần chăm sóc cho ông Sum như con gái lớn trong nhà, biết từng sở thích khi ông đi sớm về khuya, miếng chanh, trái ớt đến cộng hành ngò trong tô mì bốc khói. Có lần hai Thơm đứng sau lưng ông Sum vói tay để ly café đen trên bàn, vô tình hay hữu ý cạ bộ ngực đẫy đà của gái một con vào lưng, khiến tay ông nổi da gà.

      Thằng Khôi, con lớn ông Sum mới vào lớp sáu, hắn khôn tổ trời, nghịch ngợm có tiếng ở khu cống Bà Xếp – Hòa Hưng. Một lần đi học về vô tình hắn thấy ông Sum đè nga hai Thơm trên lan can cầu thang, mái tóc hai Thơm buông xõa, chiếc áo vải phin đen bật tung khuy áo lộ ra làn da trắng nõn nà. Hắn sè sẹ nhón gót quay lui…

     Hắn không dám kể cho ai, mỗi lần bà Sum về hai anh em tụi nó chỉ được gần mẹ đôi ba ngày. Khôi ngần ngừ định kể cho mẹ nghe nhưng hắn thấy lòng không nỡ. Ánh mắt mẹ luôn đăm chiêu suy nghĩ chuyện gì lung lắm thường ít tỏ ra âu yếm anh em nó, Dân mới lên hai, mẹ lại tất tả ra đi.

     Bà Sum mở cổng, đêm đã khuya ánh đèn đường vàng úa xuyên qua cành lá cây hoàng lan tỏa hương thơm dìu dịu. Con chó berger to lớn choàng hai chân lên vai bà gừ gừ, lắc đuôi mừng rỡ, bà nhẹ nhàng đi vào phòng…

     Cảnh tượng trước mắt khiến bà xây xẩm mặt mày, ông Sum và hai Thơm lõa lồ nằm bên nhau trên chiếc giường đệm lò xo trong phòng ngủ của bà. Bà như điên dại, tiếng hét và tiếng vỡ của lọ hoa như cộng hưởng thành tiếng sấm trong đêm. Bà cầm phần đế lọ thủy tinh định đâm nát mặt hai Thơm nhưng cái đạp phũ phàng của ông Sum bắn bà vào góc tường, đầu va vào cạnh chiếc tủ gỗ lim, bà ngất đi với dòng máu phun trào…

     Vừa ra khỏi nhà thương, bà về tìm lại hộp nữ trang bằng vàng và hột xoàn trên chiếc tủ đầu giường, tất cả đều là giả. Điều kỳ lạ, hai Thơm không hề tỏ ra ngại ngùng hay sợ sệt khi giáp mặt với bà, còn tỏ ra thách thức. Cơn gin dữ và uất ức trào dâng khi ông Sum và hai Thơm vu khống bà đem của cho trai khiến bà như điên như cuồng. Bà cầm dao phay chém vào vai hai Thơm, vết chém bằng sống dao không chạm vào xương nhưng công lý đã quy tội cho bà cố sát. Bà bị tống giam vào khám Chí Hòa khi Út Nga mới được hoài thai sáu tháng.

     Những ngày sắp lâm bồn, bà xin tại ngoại nhưng không được phép. Cơn đau âm ỉ kèm theo chấn thương lần trước khiến bà như người mất trí, Út Nga ra đời trong sự hoảng loạn của mẹ và tình thương của các bạn tù.

-        Mầy có biết anh Khôi đi đâu biệt xứ vì sao không? Sắp

thi tú tài ảnh bênh vực mầy khi bị mụ già “lựu đạn” hành hạ vì mấy trái chuối. Mầy đi học về không có cơm ăn, tao cũng đói nhưng lại sợ ông già, tau bị mấy cái đá…

-        Bả khóc bù lu bù loa nói tụi mình hổn! Em đi học về

Đói bụng lại phải lau nhà, thấy nải chuối chín vàng ươm em ăn trộm một trái, mới nuốt ngang cổ họng bả dộng luôn vô miệng, em muốn ngạt thở. Mấy trái còn lại bả quăng xuống đất chẹp bẹp nhưng em lén gói vô tờ nhựt trình cho anh ăn đó!

-        Anh Khôi bị ông già đày hay tại ảnh buồn tình bỏ học

đăng lính rồi mất tích. Dzậy sao bây giờ mầy đem bả về nuôi?

-        Tui xuống Châu Đốc thăm, thằng con riêng trời ơi của

bả trách bả bỏ rơi hắn khi còn đỏ hỏn, đẩy bả ra ngoài đường ăn xin. Thương tình tui rước về nuôi…

     Không biết có phải vì mình không có con với ông Sum hay ganh ghét bà Sum mà hai Thơm ra tay hành hạ Út Nga thậm tệ. Dù thương con nhưng không thể bênh vực Út Nga trước mặt hai Thơm, ông đành gởi Út Nga vào trường nội trú Bác Ái của các Soeur. Mới mười lăm tuổi, hai Khôi ra vẻ đàn anh thấy rõ, đám cô hồn choi choi khu Nguyễn Thông nối dài ngưỡng mộ tánh lầm lì ít nói nhưng hào hiệp và song phẳng của hai Khôi, sẳn sàng bênh vực và giúp đở kẻ thế cô nhưng Khôi đành bất lực nhìn hai Thơm ngược đãi em mình mà không làm gì được, Khôi nghiến răng cầm dao chặt đứt nửa ngón tay giữa của mình trước mặt hai Thơm. Nhìn Khôi cầm phần ngón tay đầy máu bỏ vào miệng nhai trệu trạo, hai Thơm kinh hồn ngất xỉu.

     Nghe kể lại chuyện nhà, ông Sum vò đầu bứt tóc. Với thế lực của ông, chuyện xã hội ông giải quyết cái rụp nhưng đầu óc ông rối bời khi hai Thơm trách móc ông không biết dạy con và nằn nặc thu dọn hành trang ra đi. Dân đang gào khóc gọi mẹ, ông Sum trút nỗi bực dọc bằng cái tát tai nổ đom đóm lên má, khiến Dân lăn cù xuống bậc tam cấp.

-        Mầy có thấy mặt tao bên to bên nhỏ không Út Nga?

Cú trời giáng đó tao bị bể quai hàm. Mẹ nghe tin, bồng tao về gởi cho cậu. Chà, con nhà cậu sáu đứa cộng tao là bảy, miền sông nước chẳng có đứa nào học hành chỉ quen tát đìa, suốt ngày vùi mình đi bứt cộng súng, ăn cá nhiều hơn cơm…

-        Ừ, trên này mấy người giúp việc cũng bỏ đi hết, ba

nghe lời bả không cho tui nội trú nữa. Tui làm hết chuyện nhà, con nhà giàu nhưng đố tui biết gói xôi là gì. Khi nào hết việc tui quay nước mía cho cô Xíu Xẩm kiếm tiền. Mèn đét ơi! cuốn luôn mấy đầu ngón tay tui, đau thấy mụ nội nhưng tui không nói ai hay. Ngày nào cũng phải giặt thau đồ chà bá! Nghĩ lại cũng dzui thiệt anh Ba… ha ha.

-        Cuối cùng rồi mầy với tao cùng tá túc nhà cậu, đến

bây giờ tao cũng không biết lỗi do đâu, tại ba hay tại mẹ! Tờ báo Tin Sáng có đăng chuyện nhà mình. Nhưng thôi, mình phận làm con…

-        Anh ba nhớ không, tui ra chợ bán bông súng, bà

Ngây – Bà già chồng tui bây giờ, cứ dòm tui lom lom, bữa kia bả hỏi: “- Mầy muốn dìa ở nhà tao không?”. Tui thấy cảnh nhà cậu nghèo quá, muốn đi cho bớt miệng ăn. Tui nói: “- Nhà bác đông con hôn?”, bả nói: “- Có một mống thằng con trai, lớn hơn mầy mấy tuổi, nếu ưng sáng mai con tao chèo ghe ra đón!”. Tui về thưa với cậu, cậu nói: “- Mầy muốn ở đâu thì ở, vùng này ai cũng nghèo nhưng tốt bụng. Tao biết bà Tư Ngây…”.

     Sáng ra, tui thay bộ bà ba đứng bến sông chờ. Tui thấy có cậu học trò bảnh tỏn, ôm cặp bước lên bờ. Tui chạy tới cầm tay: “ -Anh đón tui hả, mình dìa!”. Anh học trò mặt tái xanh, nhảy xuống ghe, giọng lắp bắp: “-Tui đi học mờ…”.

     Tui tức cười đâm ra dạn dĩ: “- Không phải con bà Tư hả?

     Ảnh chèo ghe đi tuốt.

-        Thằng chồng mầy cũng hiền đó chớ, chỉ hơi lù đù…

-        Dìa nhà bà Tư Ngây tui cũng làm đủ thứ mệt muốn hụt

hơi, tui với thằng chả giành nhau ăn thiếu điều muốn uýnh lộn, nhưng tối nào cũng ngủ chung. Hơn một năm sau, quen nước quen cái tui mới cho thằng chả làm chuyện vợ chồng. Cái thứ chi mà ham, đeo như sam…

………

     Bà già “lưu đạn” tám mấy tuổi rồi, đêm nào cũng lần tràng hạt, tụng kinh. Trời cho bà minh mn để nhớ hay ăn năn chuyện đời? Đêm đã dần khuya, bóng chim ăn đêm bay vụt qua sân như ánh chớp khiến bà giật mình. Đời bà cũng vậy thôi, mới ngày nào… đứa con không mong muốn được sinh ra, đã gieo vào lòng bà bao khốn khổ. Một đêm mưa gió tối trời bà cuộn tròn thằng bé trong chiếc khăn rằn để trong chòi của thằng cha nó. Bà theo chuyến xe đò sớm lên Saigon…

     Cơ ngơi nhà ông Sum khiến thân phận như bà lóa mắt, ông Sum không cho bà an phận tôi đòi. Sự rạo rực và thèm khát trong cơ thể đã một lần sinh nở của bà cứ trào dâng nhất là những đêm về sáng. Sự mơ ước chiếm hữu theo bản năng lớn dần cho đến ngày ông Sum đồng lõa đưa bà vào vòng oái ăm của cuộc đời. Đến bây giờ bà cũng không hiểu vòng vàng, hột xoàn của bà Sum tại sao là giả! Vết chém dù còn nương tay của bà Sum đã tạo thêm động lực để bà quyết tâm chiếm trọn vai trò bà chủ bên ông Sum. Nói có trời, sau những lần dan díu bà yêu ông Sum thật sự. Sự ghê tởm và căm thù đàn ông từ sự hiếp dâm thô bạo đã nhường chỗ cho sự êm ái và thăng hoa cảm xúc bởi ông Sum, người đàn ông lịch lãm, mạnh mẽ và tế nhị trong tình trường khiến nhiều lần bà kêu rú lên, hai tay bắt chuồn chuồn...

     Ý nghĩ cướp chồng khiến đôi lần tâm hồn bà chao đảo, sự thật thà và lương thiện của người con gái miền sông nước khiến bà cảm thấy tội lỗi với các đứa trẻ, càng tỏ ra chăm sóc lại nhận ngược về mình những tia mắt khó chịu và hằn học, bà có cảm giác chúng nó theo mẹ và căm thù bà. Từ đó, bà không còn tình yêu thương gì với những đứa con của ông Sum, chính bà cũng không hiểu được lòng bà.

     Út Nga đi đâu về mặt mày tươi rói, tay cầm bịch hủ tiếu Nam Vang, cười hề hề:

-        Má ăn rồi đi ngủ. Người ta nói ăn khuya, khỏe!

-        Cha mầy, đi nhậu về hả con? Đàn bà con gái tối nào cũng

nhậu!

-        Dzui mà má, khi mấy đứa còn nhỏ con đâu chăm sóc má

được, con cũng già gần bằng má rồi đây nè. Có nhiều điều mình không định được cho chính bản thân mình, kể cả cái chết. Chơi dzui đi má, mình còn sống được bao lâu!

    Bà già “lựu đạn” lần tràng hạt, đôi mắt lim dim hướng về cõi tịnh yên, sự ấm áp từ tấm lòng của Út Nga lan tỏa len vào tâm khảm bà sự dịu ngọt của tình người. Dây tràng hạt bỗng đứt tung, những hạt gỗ màu nâu sậm rơi rơi lăn tròn, xoáy vào tim bà nỗi niềm ray rức khôn nguôi.  

 

BÓNG CHIỀU


-        Chào anh! Anh nhớ em không?

    Tôi bối rối nhưng vội vàng đáp lễ.

-        Ngày hội Trùng Dương… Nàng nhẹ nhàng gợi ý.

     Đôi má hây hây vương vấn nắng chiều, tia mắt nàng bừng sáng sau làn tóc rối tung bay theo gió nhẹ.

    Tôi mời nàng vào cafeteria, chọn bàn khuất sau khóm trúc đào. Không cần biết tôi uống gì, nàng gọi hai ly chanh Rhum. Hôm nay nàng thật lạ, bộ trang phục lụa đen tuyền bó tròn thân hình gợi cảm, tương phản màu da trắng hồng khiến lòng tôi lâng lâng, rạo rực một điều gì khó tả.

     Nàng mời tôi về nhà, con đường bê-tông nép mình dưới hai hàng cây hoa vàng anh rực sáng dưới ngọn đèn đường. Tiếng gầm lên nghe ứ nghẹn, tôi giật mình quay lui, con chó berger to lớn lông xám vàng đang chồm tới, nhưng được giữ lại bằng dây xích. Nàng ôm cổ nó vỗ về:

-        Antony, ngoan nào, bạn đó!

     Nàng đứng chắn ngang như bảo vệ, mời tôi vào phòng khách:

     - Nhà chỉ hai mẹ con, cháu vừa đi du học hơn nửa năm nay rồi, em buồn…

     Bức chân dung hai mẹ con thật đẹp, đôi mắt cô bé tròn vo nhìn tôi nghịch ngợm, ngoài kia con Antony lại nhìn tôi cảnh giác, thỉnh thoảng nhe hai hàm răng trắng nhỡn đầy vẻ hăm dọa. Sợi xích loảng xoảng khi nó trở mình, khiến tôi có cảm giác không bình yên…

     Nàng bước ra hàng hiên, ôm vai Antony thầm thì, Antony đưa hai chân trước choàng vào cổ nàng, giọng rên lên gừ gừ nhỏng nhẻo, chiếc đầu xinh xắn của nàng lọt thỏm vào vùng ngực mạnh mẽ đầy lông vàng ươm của nó. Tôi đâm ra ngượng nghịu và ganh tị.

     Nàng nhìn tôi cười, môi dưới trề ra như giễu cợt sự nhút nhát của tôi, nàng thì thầm:

-        Chiều nay phải tắm cho Antony thôi, hôi quá rồi!

     Nàng thoăn thoắt đi vào buồng tắm, dáng ỏng ẹo như trêu ngươi, tôi đứng lên định chào nàng từ giã ra về, giọng nàng mơ hồ lẫn khuất sau chùm nước vòi sen:

-        Nếu muốn… anh cứ tự nhiên, em không giữ Antony

cho anh đâu…

     Tôi giật mình nhìn ra cửa, Antony ghếch mõm lên bậc thềm với cặp mắt trắng dã nhìn tôi đe dọa.

     Nàng là bạn “vong niên” của Julie H., chồng H. với tôi là bạn cùng khóa, nhưng anh đã xa rời nhân thế. Trong buổi dạ tiệc hôm ấy dù nàng là hoa khôi, nhí nhảnh và hồn nhiên nhưng biết thân phận mình, tôi vờ như lãng tránh.

     Đêm đã về khuya, tôi lặng lẽ rời căn biệt thự xinh xắn ở ngoại ô của H., bỏ lại sau lưng những điệu nhạc du dương, những vòng tay quấn quýt trong không gian mờ ảo liêu trai.

……….

     - Mời anh lên sân thượng, em cho anh xem cái này…

     Nhìn khuôn ngực tràn trề nhựa sống và đôi mông khiêu khích... Tôi đứng lên bước theo nàng, mặc kệ tiếng gầm gừ của Antony.

     Trên bệ đá trắng ngần, người nghệ sĩ điêu khắc tài hoa đã tạc thân hình vệ nữ nằm l lơi, với chiếc eo thon cùng đôi gò bồng đảo thanh tân, mái tóc buông dài tạo thành dòng suối nên thơ róc rách chảy vào hồ bán nguyệt.

     Tôi ngn ngơ chiêm ngưỡng tác phẩm tuyệt bích, bao nhiêu ý nghĩ tà tâm về nàng vụt tan biến. Ngọn nến lung linh, chập chờn theo gió lắt lay. Mùi thơm dìu dịu, thoang thoảng từ nàng khi tôi đón nhận cốc rượu vang, môi nàng hé mở:

-        Cuộc đời này không đáng yêu sao? Em nghe chị H. kể

về anh, sự hoài niệm và tiếc nuối chỉ day dứt lòng người, nước ra khơi xa khó trở về nguồn…

    Vậy là nàng đã hiểu, vợ tôi mang hai con vượt biên khi tôi còn ở trong tù. Tất cả đã chết. Nếu còn… Tự nhiên tôi đâm ra khó chịu với nàng:

-        Chuyện riêng của anh. Xin lỗi em…

     Trời trong xanh lấp lánh những vì sao, ánh trăng lưỡi liềm khuất sau vòm lá. Tôi bắt tay nàng:

-        Tạm biệt, hẹn ngày gặp lại…

     Nàng quay lưng ng vào lòng tôi, sự va chạm bất ngờ khiến tôi bối rối. Da thịt nàng mát lạnh, tôi quên hết mọi sự trên đời, nàng đã trao tôi trái cấm, bản năng Ađam trong tôi bùng lên dữ dội, đôi môi ham hố lướt trên má trên môi nàng, thân hình diễm tuyệt không xiêm y lồ lộ… Nhưng đôi mắt phản chiếu ánh trăng khuya dưới kia của Antony như hai ngọn đèn pha nhỏ xíu xanh lè, kèm theo tiếng rên hư hử của nó khiến tôi bừng tỉnh cơn mê.

     Nàng ngỡ ngàng nga mặt nhìn tôi, thở dài:

-        Chuyện gì vậy anh? Đêm nay hãy ở lại cùng em…

…….


     Ra trường tôi cùng Hưng – hôn phu của H. tân đáo về Năm Căn nhưng khác đơn vị, căn cứ đìu hiu bên con sông Bồ Đề.

     Hưng đẹp trai, phong lưu nho nhã còn tôi da ngăm đen như mọi núi, H. đẹp và mộc mạc như bông hoa rừng tràm. Gia đình nàng gốc người Hoa, có mười lò hầm than đước ở Năm Căn và nhiều hàng đáy trên sông Cửa Lớn. Mỗi dịp hè nàng từ Cà Mau về nhà ở chợ Hàm Rồng. Duyên tình của Hưng và nàng tình cờ nhưng quay cuồng như sóng nước mênh mông…

     Ngày ấy, tôi “khù khờ” không biết nhậu nhưng Hưng thứ gì cũng biết. Năm Căn - vùng “xôi đậu”, chưa bao giờ chúng tôi dám ở lại nhà nàng qua đêm, nhưng rượu vào Hưng đâm liều lại thêm lời khích tướng của H.:

“Chim quyên xuống đất ăn trùn

Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than

Đốt than thì phải sàng than

Làm sao đừng để lấm gan anh hùng”

(ca dao) 

     Noel năm 73, phi đạo dã chiến căn cứ Năm Căn chìm trong cơn mưa cuối mùa, gia đình Hưng theo chuyến bay Caribou từ Saigon xuống bàn chuyện hôn lễ của Hưng và H., chàng phụ rể bất đắc dĩ là tôi cùng đoàn nhà trai mang lễ vật đến nhà nàng.

     Sau ngày chạm ngõ không lâu, chuyến hải hành cuối cùng trong khi chờ phương tiện về phép để chuẩn bị thành hôn, duyên tốc đỉnh (PCF - Patrol Craft Fast) bị vướng thủy lôi, mang theo hình hài của Hưng cùng thủy thủ đoàn chìm sâu vào lòng sông Cửa Lớn, gần ngã ba Tam Giang.

……..

     Sau hơn hai mươi năm, lênh đênh thăng trầm theo cuộc sống, từ vùng đất cao nguyên tôi lần về Saigon tìm đến nhà Hưng. Mẹ anh đã mất, nhưng bất ngờ tôi gặp lại H., tôi không còn nhận ra nét kiêu sa của cô nữ sinh nhí nhảnh ngày nào. Sau ngày đất nước sang trang, nàng theo gia đình về HongKong rồi sau đó định cư ở Hoa Kỳ, nhưng nàng mãi vò võ cô đơn và nguyện chung tình cùng hình bóng của Hưng.

     Nàng thì thầm:

-        Đợt trước em về, mẹ và em tìm đến nghĩa trang Quân

Đội Biên Hòa, đưa hài cốt Hưng về quê nội của anh ấy ở Mỹ Tho…

     Tôi không tin trên đời này còn có sự thủy chung, nhưng nhìn vào mắt Julie H. niềm u uẩn vời vợi, hình bóng Hưng khó thể phai nhòa trong tâm trí H.

-        Liệt nữ bất sự nhị phu” phải không anh? Em không

là liệt nữ. Đơn giản, khó có ai thay thế anh Hưng trong lòng em. Dù em chưa được làm dâu một ngày, nhưng những người thân còn lại của anh ấy là cật ruột của em, vậy thôi!

    Tôi liên tưởng đến hoàn cảnh của mình, vợ con tôi ở phương trời nào xa ngái, còn sống hay đã chết? Vì sao không đợi tôi về…?

..........

     Điện thoại của Nàng:

-        Antony đã… chết. Nó không chịu ăn uống gì anh ơi!

Đến với em, nhanh lên…

     Antony gầy nhom, đôi mắt mở trừng trừng trông tàn tạ lạ thường, khác hẳn ngày đầu tôi nhìn phát khiếp. Antony đã ở bên nàng từ ngày Q. bỏ mẹ con nàng sang bến khác.

    Tôi đến nhà nàng, người mở cửa lại là Julie H., nàng nhìn tôi mỉm cười, nhưng ánh mắt buồn hiu:

-        Anh biết không, em đã đưa Antony về đây với Nhung

từ ngày nó còn bé tí, thấm thoát cũng đã gần mười năm. Antony có nghĩa lắm anh, hình như nó có ý thức được chia sẻ buồn vui cùng chủ và cố làm tròn bổn phận bảo vệ hai mẹ con Nhung…

     Nếu tôi tỏ ra thân thiện với Antony ngay từ những ngày đầu, biết đâu Antony sẽ không buồn… Từ ngày tôi có Nhung, nàng đã vì tôi say men tình muộn, có lúc ngao du đâu đó quên mất đường về, Antony đôi khi bị bỏ đói và không được chăm sóc đúng mức, nhìn xác thân tiều tụy của nó, tôi càng ân hận khôn nguôi.

     Nhung lại càng buồn và ray rứt hơn tôi. Julie H. an ủi và đề nghị:

-        Mình sẽ "an táng" Antony tại vườn hoa trong biệt thự

của em. Sẽ xây mộ và tạc tượng Antony để khi bé Phương về còn nhìn thấy nó…

     Nhung muốn tôi bán cơ ngơi nhỏ bé gồm mấy sào cafe và tiêu trên Daklak để về đây sống chung cùng nàng, hơn nữa công ty xuất nhập khẩu của Julie H. đang cần người. 

     Tôi thầm nhủ: "Một thân một mình sống đâu chẳng được!". Nhưng nhớ những ngày phiêu bạt lạc bước lên Tây nguyên rừng xanh gió núi, những đôi mắt dại khờ, da đen nhẻm, chân trần của những em bé Rha-đê đã níu chân tôi dừng lại chốn này.

    Tôi dạy các em từng con chữ, ê a những buổi trưa hè, rộn rã tiếng cười dân ca lạ lẫm miền xuôi, ngược lại các em ngâm cho tôi nghe trường ca, tiếng cồng chiêng rộn rã núi rừng bên bếp lửa bập bùng cùng điệu múa nhịp nhàng nhưng gợi cảm của truyền thống Ê Đê.

     Sau ngày giỗ của Hưng, tôi về lại Tây Nguyên, không giã từ Nhung và cả Julie H.

     Rừng xưa chưa khép bước tôi về...


SỐNG CÁI NHÀ GIÀ CÁI MỒ

    Cứ vào khoảng cuối thu, lá cao su chuyển từ xanh sang vàng, rồi màu đỏ trước khi rụng. Đẹp và thơ mộng hơn rừng phong Bắc Âu.

“Người lên ngựa, kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”

(Kiều-Nguyễn Du). 

    Dọc hai bên đường, hoa đào hoang tím nhạt, lung linh trong gió.

    Ông bạn già Khang dừng xe đạp:

    - Ông Lân hử! Chớ về hồi nào?

    Nghe tiếng “về” lòng ông ấm áp lạ thường, ông mỉm cười:

    - “Sinh ký tử quy” mà! Dù sống hay chết, biết nơi mình sẽ về là ổn rồi. Vào đây đã…

    Ông Khang ngớ người không hiểu ông Lân nói gì, theo chân ông Lân vào quán bà Năm:

    - Lâu dữ nghen thầy! Có “cô” về không?

    Làm nghề giáo cũng vui, già khú đế vẫn còn được gọi “cô”. Ông Lân quay sang ông Khang:

    - Làm mấy “ve” hỉ?

    - Tui bỏ rượu bia rồi, lên “tăng-xông” suýt chết!

    Không chờ ông Lân có ý kiến, ông quay sang bà Năm:

    - Một ly bạc xỉu, một ly café đen nóng! Tui vẫn nhớ cái “gu” của ông mà.

    - Nhớ cái hồi kèm theo điếu Samit, mới đó mà nghe chừng xa lắc. Bà Năm góp lời.

    Ông Khang khoe:

    - Tui cũng được địa phương phân cho hai cái đã xây kim tỉnh đàng hoàng. Sống đồng sàn, chết không đồng quan cũng đồng nghĩa địa. Tui nói với mấy đứa nhỏ đừng ma chay rình rang tốn kém, thiêu xong bỏ chút tro cốt vô hủ gởi chùa hay rắc hết xuống sông, nhưng con tui hổng chịu.

    - Nằm xuống rồi, mọi sự theo ý của người sống. Bà tui nghĩ cũng phải, thời bây giờ kiếm được chỗ “nằm” tốn kém lắm, con cái đứa nào cũng còn chật vật, thôi mình lo trước phần mình. Đôi khi tôi nghĩ, sống hay chết gì con cháu có chỗ để về nghe cũng ấm áp ông ạ! Mình dân tha hương, con cháu trưởng thành nơi đất khách quê người, đây là quê hương chớ ở đâu ông? Tui nhớ hình như lời Lão Tử:

    “Con người sinh ra trên đời theo lẽ tự nhiên, chết cũng tự nhiên, sống trên đời thuận theo lẽ tự nhiên, có như vậy bản tính mới không loạn, không thuận theo tự nhiên, bận bịu chìm đắm trong nhân và nghĩa, bản tính lúc nào cũng bị gò bó, trói buộc, khó có thể thảnh thơi.Trong đầu lúc nào cũng cánh cánh suy nghĩ về công danh, tâm vì thế mà bất an, mưu lợi trong tâm, chỉ rước thêm phiền não”.

- Nghĩa trang xã mới “quy hoạch” giống như hoa viên, chia từng khu vuông vức, đường sá rộng rãi đẹp thiệt ông à. Nghe nói địa phương cũng chiếu cố đến những thầy cô giáo cũ, một thời…

    - Vì vậy mà tui về đây! Tụi tui thích “nằm” bên ông, không biết còn chỗ trống không?

    - Để rồi xong giờ dạy rủ nhau nhậu hử? Tui nhớ chiều nào trước sân nhà ông dưới tán bạch đàn, tụi mình chỉ cần mấy xị rượu với cốc, ổi mà nói chuyện văn chương, thơ phú tràn cung mây, nhưng thi tứ chưa thoát khỏi chữ ngậm ngùi…

    - Tui nghĩ cũng lạ! Khi nhậu ông như thầy giáo, đứng trên bục giảng ông lại say. Tinh hoa của ông phát tiết cực độ và bi phẫn lẫn cuồng nộ theo những thân phận bất hạnh, bần cùng. Cũng có đôi lần ông trích giảng không có trong sách giáo khoa… Nhưng tui ủng hộ!

    - Chính điều đó tui quý trọng ông. Có lần tui hỏi ông: “Dạy học trò cái gì?” – Ông trả lời: “Tình thương!”. Chỉ có vậy thôi mà sau bao nhiêu năm, nhiều thế hệ học sinh của ông vẫn nhớ đến thầy…

    Ông Lân nhìn ông Khang, rồi nhìn lại mình. Dù đồng niên nhưng tóc ông đã bạc phơ, ông đã rời xa bục giảng trước ông Khang khá lâu chuyển sang nghề khác cũng vì sinh kế, để các con ông có điều kiện học hành… Cuộc đời ông thăng trầm như nốt nhạc, nhưng những nốt nhạc buồn thánh thót như hạt mưa rơi của chiều đông lạnh lẽo tha phương…

    Chiếc xe hơi đen bóng loáng dừng trước quán bà Năm, bốn khuôn mặt trung niên rạng rỡ chạy ùa vào như lũ trẻ, tay mắt mặt mừng chào thầy rối rít, miệng hỏi liên hồi. Hai ông không biết trả lời câu nào trước câu nào sau…

    - Nghe nói thầy về tụi em đi tìm, may quá!

    - Bắt cóc hử? Thầy vừa xuống xe đò, gặp thầy Khang...

    - Trưa nay nhà Bảo giổ thầy Hân - ba bạn ấy, tụi em kính mời hai thầy lên xe.

    Ông Lân thảng thốt, thầy Hân cũng là thầy dạy những ngày ở trường sư phạm của ông, biết bao thế hệ giáo sinh mang theo tấm lòng và ảnh hưởng lớn từ tính mô phạm của thầy tỏa về muôn hướng. Sau ngày đất nước thống nhất có triệu triệu người đổi đời, thầy Hân lại ở trong triệu triệu người mất việc đi làm cu-li hay dắt díu nhau về miền đất ba-zan ngút ngàn cao su này làm rẫy, cạo mủ cao su…

    Ngày thầy mất ông Lân không hề hay biết, ông cảm thấy mình quá vô tình lại càng cảm thấy xấu hổ với mấy em học sinh của ông. Ông thừ người trầm ngâm tưởng nhớ về người thầy khả kính năm nào, ngay tại vùng đất này nhiều lần ông bỏ dỡ công việc như đang sửa hay vá xe đạp cho khách, chạy ra đẩy chiếc xe thồ chất đầy lá chuối của thầy Hân lên con dốc ngoài kia…

    Cơn sóng dữ dội cuốn phăng những “tàn dư” cũ vào dòng nước xoáy hung hãn rồi vất tung hê vào rừng sâu. Sự đố kỵ và ngộ nhận làm ngất ngư những tinh hoa dân tộc được đào tạo bài bản, đẩy thân phận họ lên bờ xuống ruộng, lãng phí chất xám một cách ngô nghê. Tính tự hào của chiến thắng đã tạo ra những thế hệ kế tiếp sống trong tự mãn và ảo mộng của thời bình, đua nhau hưởng thụ. Vật chất hóa lý tưởng sống, khiến nhân sinh quan méo mó và ngày càng hụt hẫng với những gì đã được nhồi nhét bằng mớ lý luận mơ hồ.

    Sự phồn hoa không từ căn cơ thu nhập quốc dân, chúng đồng lòng gặm nhấm tài nguyên đất nước đến cạn kiệt để tô vẽ bộ mặt xã hội thêm hào nhoáng, lừa mị.

    Ông Lân giật mình như tỉnh cơn mơ, nhà thầy Hân vẫn như xưa. Đôi mắt thầy trong di ảnh hiền từ nhưng cương nghị, ông Lân cảm thấy hổ thẹn với lòng mình. Trong cuộc sống bôn ba mưu sinh, hình như ông đã nhiều lần e ngại và tránh né khi đối mặt với những bất công và đê tiện của lũ bợm người. Sự lừng khừng thủ thế là thỏa hiệp tồi tệ nhất, không xứng đáng với tinh thần “kiến ngãi bất vi vô dõng giả” của cụ Đồ Chiểu và một đời thanh lương, khẳng khái của thầy Hân.

………

     Ông Khang đi rồi, ông đi bất thình lình sau cơn đột quỵ. Ông Khang đã về trước ông…

    Những cơn mưa cuối mùa dữ dội, nước tràn vào huyệt mộ khoáy trộn màu đất nâu đỏ xen lẫn những chiếc lá cao su úa vàng xoay tròn như bàn tay đang vẫy tạ từ. Nước cũng rút đi thật nhanh, để lại lớp váng bùn lóng lánh như kim nhủ dưới ánh mặt trời đứng bóng. Ông Lân đứng trên tấm đan phần mộ của mình, ông sẽ “nằm” bên ông Khang, kế bên là của bà. Ông liếc nhìn vợ, khuôn mặt bà Lân không tỏ cảm xúc gì sau cặp kính đen, nhưng ông biết lòng bà đang rộn lên niềm u hoài khó tả. Đột nhiên ông muốn ôm bà vào lòng, vuốt mái tóc đã chớm bạc bay bay theo cơn gió hiếm hoi của buổi trưa nồng. Lòng ông chợt nghĩ:

Bóng ngả về chiều, trời sao mau tối

Ta bất an với đời ta nông nổi

Lá quen cành bối rối lúc lìa xa

Vắng con tàu ngơ ngác một sân ga

Mới chợt nghĩ mà thương em quá đỗi

Tóc ngả màu đông, da hằn vết rối

Nhưng trong ta em vẫn mãi ngu ngơ

Em vẫn là em của thuở ấy dại khờ

Nên nếu một mai...bỗng ta về với núi

Làm sao nâng niu khi ta là cát bụi!

Lá quen cành bối rối lúc lìa xa

Vắng con tàu ngơ ngác một sân ga...

(Bóng Ngả Về Chiều – PNCU) 

    Lòng ông đầy mâu thun, vừa muốn không thể mất bà lại vừa muốn bà đi trước để ông có thể thực hiện những sở thích của bà như những gì bà ao ước lúc sinh thời…

    Khi đang còn hiện hữu, ông đã làm gì để bà vui? Trong tình chồng vợ, ông đã bao lần đem lại muộn phiền, tủi thân trong tâm khảm của bà. Bà đã âm thầm chịu đựng tính trăng hoa bay bướm của ông, tính nghệ sĩ nửa mùa như hạt sạn trong chén cơm nồng hương lúa mới đã dìm chết một phần tình yêu thương bà vốn chỉ để dành cho ông từ ngày mới lớn.

    Ông Khang mất, ông như sực tỉnh cơn mê. Tuổi bảy mươi chỉ dành cho ông từng năm một, có khi từng tháng không chừng, có khi không có một sớm mai!

 

CỘI TUYẾT TÙNG GIÀ

    Đà Lạt mù sương, triền dốc quanh co. Khăn choàng cổ, áo khoác pardessus, che kín thân hình mảnh khảnh của Thiên Hương, em không hề chú ý hay nhìn thấy cội thông già, dù hằng ngày em vẫn đi qua.

    Cội tuyết tùng già di cư từ phía Tây dãy núi Himalaya đến lưu trú nơi này. Thân xù xì ứa nhựa màu hổ phách đã thâm nâu. Những chiếc lá vàng úa như kim, luồn sâu trong cát.

    Cội thông già chỉ là bóng mát của Thiên Hương, nhớ mùa Noel xưa, em nghịch ngợm nhặt những quả thông rơi kết thành vòng hoa nhiều màu sắc để trang trí.

Xa Đà Lạt, Thiên Hương cũng không còn nhớ gì về cội thông già. Nhớ chăng, chỉ là con đường em đi học, hoài niệm về một thời yêu đương. Dãy núi Langbian, nhà thờ Domaine de Marie, thung lũng tình yêu, thác Cam Ly, Prenn, hồ Than Thở…

    Rừng thông đã cho em hơi thở. Hơi thở quá thường, nên Thiên Hương không nhớ.

Một ngày kia, cội thông già nhớ về thời hoàng kim xưa. Một thời đã sinh ra những lộc non, chồi biếc làm đẹp cho đời.

    Cội thông già bỗng nhiên thấy mình như sống lại thời non trẻ. Những ánh sao lấp lánh. Đôi cánh vẫy, gọi mời của đàn thiên nga nhưng khung trời không còn xanh trong. Những bóng mây u ám, mang hàng vạn giọt nước đang bay bay…

    Thiên Hương ra phố, đường phố Saigon không bình yên như Đà Lạt. Sự hối hả của dòng người, làm ngại bước chân em. Ánh đèn tím mơ hồ của gian hàng mỹ nghệ, chiếc thuyền buồm mỏng manh nhẹ tênh, khiến em liên tưởng đến cội thông già. Cội thông tuyết tùng…

    Cội thông già đã chứng kiến bao thăng trầm, hưng phế. Những tinh hoa, vưu vật của đời, đã kết tinh thành dòng nhựa nóng hổi, luân lưu theo mạch sống, tràn ra tận ngọn những chiếc lá non xanh tươi.

    Đàn chim trời tan tác, đã bay về tìm hơi ấm. Ríu rít, mớm cho nhau mật ngọt, dư vị của đời, tưng bừng nhảy nhót trên cành lá xum xuê mát rượi.

    Ánh nắng vàng như lụa, trải dài bóng thông già ng theo triền đồi về nơi xa tít tắp. Nơi ấy, những hạt thông non đang nảy mầm, vụng về chìa những đọt lá xanh mơn mởn, rung rinh trước gió. Đàn sóc nâu, sóc bay vươn mình nhảy nhót hoan ca. Đôi tay nhỏ vụng về, ôm trái thông già chưa lìa cành, gặm nhấm. Đôi mắt tròn nghịch ngợm, cùng hướng nhìn bình minh đang lên.

    Thiên Hương dường như nghe tiếng thông reo, em nhớ Đà Lạt quay quắt. Nhớ cội tuyết tùng già. Nếu một mai, Đà Lạt vắng đồi thông, Đà Lạt sẽ không còn là của em. Đà Lạt sẽ mất và tâm hồn em sẽ chết.

    Thiên Hương nhìn qua ô cửa sổ, phi đạo cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất như dòng sông Ngân ánh bạc, thẳng tắp. Máy bay đang chạm đất, tiếng máy gầm lên, ghì lại. Cộng hưởng với tiếng thở phào, rộn rã niềm vui của những người từ nơi xa xôi bên kia bờ Đại dương tìm về quê hương. Bến cảng chiều nay vắng hơn thường ngày, bánh xe lăn chậm rãi hướng về bến đỗ.

Trong số những người khách tha hương kia, có ai nhớ về Đà Lạt, nhớ da diết cội thông già, như nỗi lòng Thiên Hương?

    Mùi hương lan toả từ cội thông già, ngan ngát. Mảnh vỏ sù sì, sắp rời khỏi thân, bật lên những vần thơ chan chứa tình đời, tình người. Những chíếc lá kim đan xen, tạo thành thảm nhung, nâng niu bước chân lãng tử đã đôi lần ghé lại chốn xưa. Còn gì đớn đau hơn, khi không có nơi để nhớ về, tìm về. Hoài niệm như vết cắt nhói tim, trong lòng người viễn xứ.

    Giông tố đã bao lần nghiêng ngả rừng thông. Những cành lá gân guốc che chắn. Rễ cội thông già bám sâu vào lòng đất, ngăn dòng nước xâm thực bạo liệt sườn đồi. Nơi có mái nhà và những người yêu dấu của Thiên Hương.

    Từ sân bay Liên Khương, em mơ màng, háo hức ngỡ như xa Đà Lạt lâu lắm rồi. Tiếng thông reo vi vu, đồi chè xanh ngát, mất hút dần theo chuyến xe qua. Hoa tường vi bên tường rào gỗ nhà ai nở rộ, dã quỳ vàng chen lẫn màu tím pensée. Những đoá cẩm tú cầu nhiều màu rực rỡ, mọc hoang bên đường, gợi trong lòng em niềm xao xuyến.

    Nhìn về thung lũng xa xa, thành phố đã lên đèn, nhập nhoà dưới màn sương mong manh. Em trở về, nhưng lòng em hiu quạnh, cảm giác như người khách lạ. Cảnh cũ người xưa đã đổi thay. Tang thương, dâu bể.

Em ngơ ngác nhìn quanh. Vườn nhà em cheo leo, đơn độc bên sườn đồi. Những gốc thông khô đét, phơi rễ trắng xoá, rải rác trên nền đất gồ ghề đỏ quạch. Tất cả đã tan hoang. Nơi cội tuyết tùng già còn vương vãi chùm rễ con, dưới lòng hố sâu hoắm, lạnh lùng.

    Thiên Hương bật khóc, mắt em đăm đăm nhìn về cõi xa xăm, cội thông già đã chết.

    Rừng thông gắn liền với “Hoàng triều cương thổ” một thời, bị xoá sạch. Thành phố hoa anh đào lung linh sắc, không hương, choàng lên thành phố ngàn thông, tấm màn sương hư ảo.

    Từ đây, những cánh chim trời không còn nơi hò hẹn. Đàn sóc nâu khờ khạo co mình trong hốc tối tăm của cuộc đời mình.

    Cây phượng già nua bên bờ hồ rải chùm hoa tím biếc, rã rời tan tác trong gió sớm, gợi trong em niềm nuối tiếc, ngỡ ngàng cô quạnh, lạc lõng khôn nguôi khi tìm về cố xứ.

 

GIỌT NẮNG TRONG SƯƠNG

    Cuối tháng lãnh lương dạy kèm, tôi được tặng thêm con chó Mi-lu. Mi-lu thuộc giống chó Nhật lai phốc, đôi tai dài cụp với bộ lông trắng tinh mượt mà. Em Mi-lu nhìn tôi không thân thiện nhưng nhẫn nhục nằm im trong chiếc giỏ gắn trước xe đạp, chiếc giỏ có em lắc lư theo tay lái quanh co tránh những vũng nước còn đọng lại trên con đường đất gồ ghề, sau cơn mưa đầu mùa.

    Em ngoan ngoãn đứng yên cho tôi kỳ cọ, mẹ bê nồi nước bồ kết đã gội đầu còn lại bảo tắm cho em. Dòng nước màu nâu nhạt hương bồ kết lan tỏa khiến em ngạc nhiên đưa đôi mắt tròn vo ngây dại nhìn tôi. Mi-lu hích hích chiếc mũi xinh xinh đen bóng, liếm liếm tay tôi. Ôi! Khuôn mặt em thánh thiện làm sao…

    Mẹ chỉ có mình tôi, cha đã chết – mẹ nói tôi giống cha, dù trên bàn thờ không có di ảnh của cha tôi. Tôi thi đỗ đại học Bách khoa, nhưng thành phần nhà ngoại tôi thuộc dòng khoa bảng quan lại, người ta nói tôi không cần đi học, địa phương không cắt chuyển hộ khẩu nên tôi không có giấy báo nhập trường.

    Mẹ tôi tốt nghiệp đại học sư phạm nhưng không được lưu dung, sau ngày đất nước hòa bình. Mẹ tần tảo ruộng vườn nuôi tôi khôn lớn, cậu Ban sau ngày đi “cải tạo” về được làm thư ký Đội A của hợp tác xã nông nghiệp, cậu chấm công điểm cho mẹ con tôi, mẹ được lãnh thêm sáu mươi ký lúa “điều hòa” nhờ dạy bổ túc văn hóa.

    Cậu Ban nói:

    - Nhà có con Ki-ki rồi, nuôi Mi-lu lại thêm miệng ăn hay là giảm bớt “cẩu khẩu”?

    Ki-ki là con chó đực được nuôi ở nhà ngoại từ khi tôi còn bé, có lẽ Ki-ki bằng tuổi tôi không chừng.

    - Nghĩa là sao hở cậu?

    - Nhà không có gì để “cải thiện” cậu định thịt Ki-ki, luôn tiện đãi “quan viên” hợp tác xã, từ lúc cậu về chưa có…

    Cậu dụ Ki-ki chạy ra ao làng đầy bông súng trắng lung linh. Tôi theo sau Ki-ki, Ki-ki quay đầu nhìn tôi vẫy đuôi tíu tít, ghé chân đái vào lùm cỏ rồi hớn hở chạy theo chân cậu. Cậu Ban để nguyên áo quần lội nhanh xuống ao, Ki-ki không ngại ngần nhảy theo cậu, nó còn quay đầu đưa mắt nhìn tôi như thầm khuyến khích tôi bơi…

    Cậu Ban quay lại kéo ghì hai chân sau Ki-ki, tiếng ặc ặc từ cổ họng Ki-ki nhỏ dần, bong bóng nước trồi lên đong đưa những cọng rong xanh…

    Cậu và tôi ngồi bên thi thể Ki-ki, từng giọt nước mắt xót xa ứa ra chảy dài trên khuôn mặt khắc khổ của cậu. Chắc chắn Ki-ki không thể ngờ người mình tin yêu lại cố tình đưa mình sang bên kia thế giới trong tức tưởi đớn đau, đôi mắt Ki-ki trợn trừng nhìn vào cõi thinh không…

    Chưa bao giờ tôi thấy mẹ giận dữ la mắng cậu như lần này, mẹ đấm ngực và gào lên rồi buông những lời bi thiết tắc nghẹn.

    Cậu vun rơm bên bờ ruộng khô, ánh lửa bùng lên, màu lông vàng úa cháy nám khét lẹt, con Ki-ki nhe hàm răng trắng nhởn. Cậu sai tôi chạy đi mua hai lít rượu và bánh tráng nướng, khi về đã thấy các vị “chức sắc” đang ngồi vây quanh nồi thịt chó um với dầu phụng (lạc) bốc lên mùi thơm khó tả, nước miếng tôi ứa ra.    

    Chiếc đầu con Ki-ki đã lìa thân nằm chơ vơ trên bờ ruộng mắt đã nhắm nghiền, mép nhếch lên nửa như giận dữ nửa như cam chịu cho số phận đời mình.

    Ông Long ngửa cổ hớp tợp rượu, triết lý:

    - Chó già cũng như thân phận lính già, buông tay súng trở về, đời sẽ lãng quên. Nhưng chó càng sống lâu với người nó càng có nghĩa, chẳng thà để chúng chết già…

    Cậu Ban lặng thinh, tôi không nỡ trách cậu, nếu gia cảnh không nghèo túng có lẽ nào cậu hy sinh con Ki-ki, hay cậu cầu danh nhờ xác thân con chó?

    - Lý sự đếch gì, “vật dưỡng nhơn”! Lão Dương chủ nhiệm không khá lên nhờ chó là gì, sân sau nhà lão đủ loại chó, chó nhớn chó bé, tiệc tùng trên chó dưới chó. Từ chó mà lão đi lên…

    Trời đã sang đông, đêm nằm mẹ ho khúc khắc. Tôi thay mẹ đi dạy bổ túc văn hóa, các em học viên lẫn cán bộ xã, thôn từ xóm trên xóm dưới sau khi buông tay cái cuốc, cái liềm kéo nhau về trường học. Những cây đèn dầu hột vịt lập lòe như đom đóm, em Mi-lu chạy theo tôi và nằm nép dưới bàn nghếch mõm chờ tôi xong tiết dạy.

    Cậu Ban dạy tôi đàn guitar, cậu càng tài hoa hơn với tiếng sáo dặt dìu trong những đêm khuya vắng. Những ngón tay trái bấm hợp âm ban đầu khiến tôi tê buốt khó chịu, nhưng những nốt nhạc ngân vang và thánh thót khiến tôi say mê bên cung đàn huyền ảo. Tôi phát hiện ra em Mi-lu biết thưởng thức làn điệu du dương, đôi mắt em nhìn tôi không chớp. Một lần tôi mang đàn ra sau vườn, ngồi dưới gốc ngọc lan già, Mi-lu lặng lẽ nằm mơ màng nghe tôi chơi bài Romance – Bản tình ca muôn thuở. Mi-lu cạ mõm vào tay tôi khi nốt nhạc cuối cùng lặng dần vào không gian tĩnh mịch của buổi trưa hè.

    Mẹ giục cậu Ban lấy vợ, cậu hơn tôi mười tuổi nhưng không nhắc gì đến chuyện đôi lứa của tôi. Người yêu của cậu đã xa vời, cô Nhung lạc mất cậu hay cậu đánh mất cô Nhung chỉ mình cậu biết.

Ngày ngoại còn sống đã tính chuyện trăm năm cùng cô Nhung với cậu, nhưng rồi cậu bị mất tích khi không còn bao nhiêu ngày nữa lịch sử sẽ sang trang.

    Bên kia bờ đại dương, cô Nhung như bóng chim tăm cá chưa một lần về. Cậu gởi gắm vào phím đàn hay tiếng sáo nỗi niềm riêng trong nhiều đêm thanh vắng, để bay vào hư không.

    Mẹ định mai mối chị Thuận với cậu, cậu cười khà khà:

    - Thuận đáng thương, mồ côi cả cha lẫn mẹ nhưng nghèo quá mà chị, thân phận em lại có ra gì…

    Nói thì nói vậy, nhưng đã nhiều lần tôi bắt gặp cậu đến nhà chị Thuận, lúc thì giúp chị đánh tranh lợp lại mái nhà, lúc cậu ngồi thừ tư lự…

    Chị Thuận dạy học ở trường thôn, chị không đẹp nhưng nết na thuần hậu, nay đã lỡ thì quá lứa, chị học trên tôi ba lớp. Tôi tình cờ nghe lén mẹ ân cần khuyên cậu:

    - Thôi đành vậy, tùy cậu. Ngày xưa chị không nghe lời mẹ, tuổi mới lớn yêu say đắm để rồi lỡ làng thân phận chị. Anh ấy cũng như Nhung, biệt vô âm tín…

    Tôi giật mình, nghĩa là cha tôi chưa chết. Ông đang lẩn khuất đâu đó trong cuộc đời này, nhưng đã bao năm mẹ vẫn mãi ôm hình bóng cũ để ngậm ngùi hay ân hận vì mối tình đã lỡ?

    Dù không “đăng ký” kết hôn nhưng cậu ra riêng, về sống với chị Thuận. Căn nhà ngói ba gian cũ kỹ và mảnh vườn của ngoại, cậu dành cho tôi.

    Bỗng một hôm nghe tin cô Nhung về, mẹ mừng khôn xiết. Tôi ước mong những hình bóng thân yêu đã chìm vào quên lãng như ông bà ngoại, như cô Nhung, biết đâu cha tôi nữa, bỗng hiện về bằng xương bằng thịt, không phải là mơ.

    Người đàn bà đài các ngày xưa nay đã thành nữ tu. Cô Nhung từ ngày thất lạc cậu, cô đã yêu người đàn ông khác và cô yêu say đắm. Người đàn ông thánh thiện mang tên Giê-su đã ban phép lành khoác lên cô tấm áo “ma soeur”. Tràng chuỗi Mân Côi mang ơn cứu rỗi hay tràng xích buộc chặt đời mình để cô mong quên đi hình bóng cũ?

    Nhưng không, cô vẫn để cậu Ban trong ngăn tim thầm kín của đời mình. Cách đây mười năm, từ nước ngoài về, cô đã thành lập trung tâm nuôi dạy trẻ mồ côi, cơ ngơi còn lại của cha mẹ cô ở Bình Dương. Cô chuyển giao cho cậu, ban đầu cậu không muốn tiếp nối những gì đã chìm vào quá khứ nhưng khi chứng kiến những em bé tật nguyền nhỏ dại được ân cần chăm sóc, lòng cậu dâng lên niềm cảm xúc và ngưỡng mộ vô biên tấm lòng của các Ma Soeur.

    Mẹ cũng bỏ tôi ở lại một mình đi theo cậu, chị Thuận và Soeur Nhung. Mẹ được trở về nghề cũ, hạnh phúc dâng tràn trong đôi mắt mẹ…

    Tôi vẫn mãi dõi tìm người đàn ông của đời mình. Một nơi nào đó trên thế gian này, cha có tình cờ đọc được những giòng chữ hẩm hiu này, cha hãy một lần tìm về.

    Nhà vắng, Mi-lu nghếch mõm nhìn tôi, đôi mắt buồn rười rượi


NGOẠI TÔI

    Bà quẹt nước trầu đỏ thắm rịn khóe môi, tuổi chưa già nhưng dáng người đã hom hem, bà mừng rỡ:

    - Tổ cha mi!

   Tôi ôm chầm lấy "ngoại", bà nắm cả hai tay sợ tôi chạy mất, dắt vô nhà. Ngoại chỉ có mình thím tôi. Quê nội tôi bên kia sông, biền dâu xanh ngắt, đò ngang cách trở thím ít khi về. Tôi mồ côi mẹ khi chớm lên ba. Ngày thím chưa có thằng Mẹo, thím cưng chìu tôi hết mực thường dắt tôi về thăm bà, tôi có bà ngoại, ngoại cũng thương tôi.

    Chú thím như bao nhiêu người nông dân chất phác khác ở quê tôi. Không đẩy đưa, không biết khách sáo là gì. Thằng Mẹo con chú, nhỏ hơn tôi bốn tuổi. Làng tôi có tục gọi cha mẹ theo tên đứa con đầu lòng. Cha tôi gọi là anh Tí, gọi chú thím là chú thím Mẹo. Riết rồi tôi cũng không biết tên thật của chú thím tôi là gì.

    Cha tôi ở xa – tôi ở với ông bà nội. Đất hương hoả giao cho chú canh tác, lấy hoa lợi cúng giỗ, chạp mả hằng năm. Nhà chú đơn sơ, tre bụi sau nhà, rạ sau mùa gặt. Hầu như các vật dụng bằng tre trong nhà đều do chú làm, từ cái chõng, mành mành, cái bồ, phên (cót) dựng quanh nhà, trét cứt trâu phơi khô, sọt tre, đòn gánh…

    Có khi hơn mười ngày, thím mới quảy gánh đi chợ. Cõng theo vài con gà, trái bí, trái mít xuống chợ huyện, mua về các thứ cần dùng. Những đứa con chú tôi, cứ vô tư ra đời, ba năm hai đứa. Từ thằng Mẹo, con Tỵ, con Hà, bé lớn, bé nhỏ, thằng Hợi anh, thằng Hợi em (hai đứa sinh đôi). Ông nội tôi trầm ngâm: “tam nam bất phú, bay ráng đẻ thêm một thằng hay con chi cũng được. Bốn thằng thì tứ hổ, năm con thì ngũ long công chúa, bay mới phát ”. Đến ngày ông nội tôi quy tiên, chú tôi vẫn nghèo. Ngày càng nghèo hơn xưa.

    Thằng Mẹo xong tiểu học, thi vô trường công lập, hỏng. Chú nói: “Văn chương chữ nghĩa chẳng hay, trở về làng cũ học cày cho xong”. Không có thằng Mẹo cặp kè đến trường, không có thằng bặm trợn là nó, hay bênh vực tôi. Tôi năn nỉ ông nội cho nó đi học, ông nội la chú quá trời. Ông nói :”Học dã hảo? Bất học dã hảo? Học giả như hoà như đạo, bất học giả như cảo như thảo” (Học là tốt hay không học là tốt, kẻ có học như lúa như thóc, kẻ không học như rác như cỏ - Khuyến học).

    Cha tôi có dì Nhung, ngày thành hôn cha với dì tôi được mặc đồ đẹp, mang giày. Dì Nhung ôm tôi vào lòng, nhưng lòng tôi không ấm. Ánh mắt sắc và những móng tay dài sơn màu đỏ chót của dì làm tôi sợ.

    Chưa bao giờ tôi thấy chú thím to tíếng với nhau, tôi tò     mò rình chú có hôn thím như cha với dì Nhung không. Tôi thấy hai người ngủ riêng hai chỏng mà sao…

Dù hôn, nhưng cha và dì Nhung hay to tiếng với nhau,     ông bà nội thở dài. Ông nói:”Hai trái tim xa nhau quá, nên phải nói to mới nghe”.

    Rồi một ngày bà nội tôi đau nặng, thím tôi tất tả chăm sóc, thuốc men. Có những đêm rất khuya, bà nội trở mình rên rẩm, đã thấy thím. Tôi không biết thím ngủ lúc nào?

    Ông nội nhắn cha tôi về. Cha vào buồng, cầm tay bà nội, nhìn quanh, rồi la lối om sòm:

    - Thím làm gì không lau rửa cho mẹ? Hôi quá, đau nhẹ cũng thành nặng!

    Thím tôi rơm rớm nước mắt, bụm mặt, chạy ra sau hè.

Cha lấy tiền đưa cho ông nội, ông nội không cầm. Rồi cha và dì Nhung lại đi.

    Mấy ngày sau, bà nội tôi qua đời.

……

    Nghỉ hè, tôi giục thím về thăm ngoại. Bến đò đã lở sâu vào biền dâu hơn trước, những rễ cây trắng muốt dập dềnh theo con sóng vỗ bờ, chiếc đò ngang mỏng manh tròng trành lướt nhẹ theo tay chèo sang bến Cửu Đàm. Mái ngói đỏ au nhà ông Cửu nổi bật sau hàng cau, bầy chim sẻ líu ríu trong không gian tĩnh mịch của buổi trưa yên ắng. Thím tôi không nhớ mặt cha mình. Tôi hỏi bà về ông ngoại, bà chậm rãi nhai trầu, mắt đăm đăm nhìn về cõi nào xa vắng, vứt bả trầu, bà ôm choàng lấy tôi hôn lên tóc, rồi buột miệng:

    - Tổ cha mi!

    Ngoại tôi mới gần sáu mươi, nhưng với tôi ngoại đã quá già, vò võ một mình trong căn nhà tranh lụp xụp, bước vào tôi phải cúi đầu. Mảnh vườn con chỉ vài cây mít, cây ổi, rau thơm… Hàng cau cao vút không biết trồng tự thuở nào, hoa cau vàng ươm trong nắng. Nhìn ngoại, lòng tôi dâng lên nỗi thương cảm vô bờ và tự hứa khi công thành danh toại, tôi sẽ đón ngoại về sống với tôi và tôi tự hào rằng tôi có ngoại.

……..

    Ông nội tôi - ông Tú trẻ của làng quê nghèo hiếu học, thương ngoại. Vì môn đăng hộ đối, ngoại tôi không thể với đến mâm son. Nội thiết tha đêm mong ngày nhớ ngoại, có những đêm nội bơi qua sông, dưới gốc mù u trái chín rụng lăn tròn, ngoại khóc hết nước mắt. Tóc ngoại thơm trinh nguyên mùi bồ kết, không thể kết tóc se duyên viên mãn tròn trịa như trái mù u.

    Nội tôi theo kháng chiến, ngoại lấy chồng…

chồng ngoại cũng đi biền biệt, nghe đâu ông hy sinh trong trận càn năm 49, mất xác. Thím mồ côi cha bằng tuổi tôi mồ côi mẹ. Dù bà nội không bằng lòng, nhưng ông nhất quyết chọn thím làm dâu, có khi nào ông nội tôi chuộc lại lỗi lầm xưa?

    Công chưa thành danh chưa toại, tôi đã vào quân đội. Đời lính ngược xuôi theo chiến trường dậy lửa, tôi không còn định hướng được cuộc đời mình. Tôi quên mất lũy tre làng, quên luôn cả ngoại.

    Những ngày trong quân y viện, vết thương bắp chân sưng tấy, tôi bị cưa mất hai chân. Ngoại tôi ngồi đó, lưng đã còng thấp hơn xưa, đưa mắt u uẩn nhìn tôi, đôi môi run run như định nói điều gì. Tôi uất ức, muốn hét lên trong nước mắt:”Con không nuôi được ngoại nữa rồi!”

 

CỎ BÔNG LAU

    Chuẩn bị nghỉ hè, tôi đạp xe qua nhà sách Thời Nay, bên kia cầu V.Đ. mua giấy pơ-luya hồng, xanh, vàng… về đóng tập lưu bút. Sực nhớ thím Út thích thơ, tôi mua tặng thím tập “Lỡ bước sang ngang” của Nguyễn Bính.

    Tôi hí hửng khoe với bà nội, bà phì cười:

    - Thím mi chữ nhứt một còn không biết, ở đó mà thơ với thẩn!

    - Con nghe thím ru em có điệu có vần mà nội?

    Mỗi lần nghe thím nói với chú cũng ra thơ, tỉ như: “Anh đi anh nhớ mau về, đừng để em ngóng mà tê tái lòng!”. Chú lén nhìn nội, rồi đáp:

Nhớ rằng đi chớ chờ mong, bồn chồn nóng ruột đây lòng sao an?”.

    Không biết thím học ở đâu, nhưng những lời ca dao ru em như lời tâm tình của thím với chú, đã ghi sâu vào tâm khảm non nớt của tôi:

”Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Còn xa nhau đi nữa, cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”

    Đi học về, tôi hay thủ thỉ cùng thím trong lúc lặt rau hay xắt chuối cho heo, không biết thím nói với tôi hay với chú:

    - “Ai ơi chớ lấy học trò, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm!”

    Chú tôi thi tú tài ba năm đều hỏng nhưng thơ, phú của chú hay nhất làng. Ông nội vuốt râu rung đùi:

    - Học tài thi phận, như Cao Bá Quát “Tý, Ngọ, Mùi, Thân thi hoài chẳng đỗ” có sao!

    “Tài trai sống ở đời, đã không làm được việc phơi gan, bẻ gãy chấn song, giữ vững cương thường. Lại ngồi nhìn bọn cầm quyền sói lang hoành hành. Đến lúc tuổi già thì mặc áo gấm ban ngày về bôi nhọ quê hương. Chỉ cúi đầu luồn xuống mái nhà thấp, nhục cả khí phách. Đến lúc già thì gối đầu vào vợ con mà chết. Giả sử hạng người ấy xuống suối vàng gặp hai cụ (Chu Văn An và Nguyễn Trãi), thì cũng mặt dầy, trống ngực đánh, thần sắc rũ rượi ra mà thôi…”

(Cao Bá Quát).

    Ông nội tôi lúc trà dư tửu hậu cũng ngâm thơ nhưng sâu sắc khó hiểu, chớ thím tôi “xuất khẩu” mộc mạc như cây ngô, cây lúa. Thím nói:

    - Nước xa không cứu được lửa gần, có chàng bên thiếp cùng lo toan mọi bề, gia phong phải giữ lấy lề, hiếu kính cha mẹ siêng nghề nông tang

    Chỉ có bà nội tôi chê thím “dốt”, dù bà rất mực thương yêu thím. Tôi “binh” thím, nũng nịu với bà:

    - Có học cũng dốt bà ơi, dốt như thím Út ông trời cũng thương!

    - Cha chả thằng ni khá! Mi cũng làm được thơ hỉ?

    Bà tôi thuộc làu truyện thơ, điển tích. Bà mượn lời ông đồ Nguyễn Đình Chiểu: Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh là câu trau mình

hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng

    Tôi lớn lên từ cái nôi cương cường, uyên bác của ông nội và thấm đm tình yêu thương mộc mạc như bụi tre già, như dòng sông hiền hòa lững lờ trôi của bà nội và thím.

    Chú tôi say mê nghiên cứu văn chương, những bài văn tế Thần hoàng, lễ Kỳ yên hay chiến sĩ trận vong đều do chú chắp bút. Lễ tiết trong làng các vị thân hào nhân sĩ đều thỉnh thị ý kiến ông nội tôi hay chú, điều đó chứng tỏ nội và chú có uy tín với các cụ, mặc dù nội chỉ là nhà nho lỡ vận.

    Tình yêu thương của chú thím tôi đằm thắm, những buổi chiều tan học tôi chạy nhanh về để cùng chú đi câu, chú tâm tình:

    - Gái có công chồng không nỡ phụ, mi nhớ đó.

    Chú thương thím như ông Trần Tế Xương thương vợ:  

   Thân cò lặn lội ở mom sông, nuôi đủ năm con với một chồng…”

    - Có phải yêu ai là yêu những gì mình không có, phải không chú?

    - Ai quan niệm như vậy nghĩa là họ chỉ yêu bản thân họ mà thôi, “La mour c’est pour rien!”

    Thỉnh thoảng chú chêm vào câu tiếng Pháp như vậy, cho tôi thêm vốn từ.

    Lên năm tôi đã mồ côi mẹ, cha đi biền biệt ít về. Bà nội nói làm trai thời chiến như cha mi ở tiền đồn heo hút giống lính thú ngày xưa. Bà ngậm ngùi, ngân ngấn nước mắt:

“Ba năm trấn thủ lưu đồn

Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan

Chém tre đn gỗ trên ngàn

Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai”.

 

    Có lần sau buổi cơm trưa thím ngồi rửa chén sau hè, cơn gió nồm mát rượi mơn man những sợi tóc mai như tơ của thím, thím trầm ngâm nhìn về cõi xa xăm nào đó, có khi thím nhớ về vùng quê Cẩm Kim có làng mộc Kim Bồng, cát trắng bạt ngàn bên dòng sông Hoài của thím:

    - “Má ơi đừng gả con xa, chim kêu vượn hú biết nhà má đâu!”

    Sao tôi nghe lòng rưng rưng. Thấy tôi lấp ló, thím xoay người ngồi bó gối, khuôn mặt đăm chiêu như nhà hiền triết, thím “triết lý”:

    - Ruộng đồng muôn đời vẫn là bầu sữa mẹ, đượm thấm phù sa không biết giận biết hờn, quê hương bao dung như lòng của mẹ, nâng bước đời ta đến tuổi lớn khôn.

Sau này lớn lên tôi nghiền ngẫm mãi câu nói của thím. Không hiểu sao, người mà bà nội hay chê là “dốt” lại có tấm lòng yêu quê hương đến vậy!

    Rồi một ngày, đình chùa miếu mạo quê tôi bị san bằng làm sân phơi cho hợp tác xã. Nội và chú tôi không còn được trọng vọng như xưa, tôi cũng xếp bút nghiên làm quen với tay cày tay cuốc. Ông nội thầm thì khuyến khích chú thím tìm đường vượt biên, mang cả tôi đi. Nhưng thím không đành lòng, vì gia cảnh nội tôi không còn sung túc, cùng với hai thân già trơ trọi.

    Cuối thu đầu đông, cỏ lau ra hoa trắng xóa trên đồi. Cỏ lau ra hoa là hết lụt hết bão, nhưng sao nước lũ dâng tràn ngập cả ruộng lúa đang kỳ chín tới, tan nát đám đậu phụng (lạc) đang chờ thu hoạch của thím tôi.

    Thím than:

    - Lũ chồng thêm lũ, cả lũ khốn nạn quá chừng!

    Thím tôi không thèm nói ra thơ nữa. Bông lau dù nở đầy đồng nhưng "ông trời" cũng hết linh thiêng.

 

CON NGỰA MÙ

    Trong tác phẩm: "Ở theo thời" của nhà văn Hồ Biểu Chánh: "... Từ ngày được xây dựng, trường đua Phú Thọ thu hút rất nhiều người đổ về xem đua ngựa và cá cược.

”…Khi mới vô, tưởng thiên hạ vì muốn coi ngựa chạy đua nên chịu tốn tiền cũng như coi hát, hay là coi đá banh. Té ra ngồi một lát, dòm coi thiên hạ bàn bàn luận luận, đi coi ngựa, hỏi tên nài, rồi chen nhau mua giấy, kẻ con ngựa số 1 năm mười đồng, người cá con ngựa số khác năm ba chục, có người lại dám cá tới năm ba trăm (...) Trong số người đi coi ở đây, phần đông là người An-nam, chẳng những là đông bên hạng đứng ngoài trời mà thôi, mà bên hạng ngồi trên khán đài, người An-nam cũng đông thập phần, lại đờn bà số gần phân nửa. (...) Trước khi cuộc đua bắt đầu, các "nài lang" dắt ngựa vài vòng chào khán giả, cho dân cá cược so chân. Nài ngựa không được nặng quá 40 kg, mặc đồng phục như kỵ sĩ, đội nón kết. Nài ngựa phải có tính can đảm, gan lì và kinh nghiệm trận mạc. Khi lượt đua bắt đầu, nài oai phong với áo màu, quần trắng... cầm roi quất liên tục giục ngựa lao về trước. Chỉ trong vòng hơn một phút, ngựa cán đích. Nài chiến thắng được tung hô. Dân "tuyệt phích", chủ ngựa săn đón nài như một ngôi sao..."

    Nài Hường nhớ thời hoàng kim xưa, đố có thằng nào qua được. Vừa nghe hiệu lệnh, nài Hường nhanh nhẹn ra roi, ngựa cất vó chồm lên, Phi Long không hổ danh ngựa chiến.

    Chủ giao Phi Long cho Hường chăm nom. Đêm về, Hường treo chiếc võng đong đưa nhìn con ngựa chậm rãi nhai cỏ, Hường mơ màng nhớ lúc khán giả hét vang tung nài lên trời, Hường nhìn quanh tìm Mai đang đứng đâu đó trong biển người hâm mộ, Hường hãnh diện quá sá!

Đôi mắt lá răm của Mai mơ màng, hàng mi dài như liễu rủ đa tình mà đằm thắm quyến rũ. Mỗi lần nhìn, hồn phách nài Hường như lên mây, tê buốt tâm can. Chiếc áo bà ba căng bóng, muốn bứt tung mấy cái nút bóp, lồ lộ đôi vú tràn nhựa sống của Mai khiến Hường tê điếng, háo hức muốn bóp nát trong đôi bàn tay quen ghì cương ngựa. Mai hiện ra trong điệu bộ e thẹn nhưng l lơi chết người. Những chùm hoa cau vàng ươm rơi lác đác trên lộ đất đỏ về "Mười tám thôn Vườn Trầu" (Thập bát phù viên hay Thập bát phù lưu viên). Ngang qua nhà Mai, Nài Hường chậm rãi cho Phi Long thảnh thơi gặm cỏ. Tiếng "lộc cộc" từ chiếc xe ngựa ngược chiều nghe âm vang một nỗi buồn man mác.

    Phi Long ngng cao đầu, cất tiếng hí vang đột ngột trong bóng chiều êm ả. Mùa động dục khiến dương vật cương cứng của Phi Long rạo rực đang hướng về con ngựa cái kéo xe bị đôi mo cau che mắt đang rượng đực, bầu vú no tròn ửng hồng đột ngột dừng lại bên Phi Long mặc cho xà ích Hai Bươn ra roi tróc tróc! Ngựa kéo xe bị che hai mắt như mù, cứ theo dây cương xà ích mà chạy bạt mạng nhưng cái "xạ" của mùa giao phối khiến bản năng muôn loài rậm rựt đố ai ngăn cấm được.

    Nài Hường ghì cương kéo Phi Long sang ngõ nhà Mai, Hai Bươn gọi với theo, sau tiếng cười ha hả:

    - Mầy làm thay cho nó được rồi đó, nghe nài Hường!

    Cột ngựa bên gốc cây mít, bà Tư - mẹ Mai, miệng đang nhai trầu vỗ vai Hường:

    - Chèn đéc ơi! Nhỏ con như vầy mà giỏi quá! Vô nhà uống nước đi mầy!

    Hường không biết bả khen hay chê! Cái hào quang chói lọi đã bỏ ở trường đua, nơi đây chỉ có thằng Hường giữ ngựa. Tự nhiên Hường tủi thân, nghe như có luồng gió lạnh buốt đang len lỏi vào thân phận ở đợ của mình.

Nghề nào nghiệp nấy, ráng ăn vô cho mập là hết làm nài, nài càng nhẹ cân càng được giá. Mai đang ngồi xếp liễn trầu, ngước nhìn Hường với đôi má đỏ hây hây, mm cười:

    - Tui nghe nói ông sắp dìa bên giồng Ông Tố hả?

    - Ông "Đu-boi"(Dubois) có tàu ngựa bên đó, biểu tui qua bển.

    - Vậy ông bỏ cái làng Bà Điểm rồi há?

    Nghe Mai nói, Hường tê tái trong lòng, cũng vì thân phận mồ côi đành buông xuôi theo dòng đời như lục bình trôi theo con nước lớn ròng.

    Không biết ai se dây cột chỉ mà Mai đâm ra có cảm tình với Hường, mặc dù Mai to con, cao hơn Hường hẳn cái đầu. Bà Tư nhìn hai đứa đứng bên nhau mà tức cười:

    - Con Mai to như ếch bà còn thằng Hường như con nhái bén! Hay là mầy dìa đây tao nuôi, nghề "nài" ép xác mai mốt mầy không ra đàn ông đâu nghe con.

    Mai nghe mẹ nói đã không mắc c mà còn phụ họa:

    - Thôi, ông bỏ nghề "nài" của ông đi, phụ má tui làm vườn sống được mà. Tui cũng mồ côi cha, có sao đâu!

Đúng là con gái "Mười tám thôn vườn trầu", Bà Điểm, Hóc Môn. Cọp, lợn lòi còn không ngán, hơi đâu...

    Hường nghe bùi tai, xin nghỉ làm nài. Ông chủ Dubois tử tế cho tiền sắm chiếc xe ngựa (thổ mộ - Tây gọi là Boite d' allumettes).

    Bà Tư coi tuổi, Hường mới chớm mười bảy trong khi Mai đã gần mười tám.

    Bà Tư ưng cái tính tình thật thà, ít nói của Hường. Nhưng ít nói là cộc đó nghe, không dễ chịu đâu đó! Nhất "gái hơn hai, trai... thua một" có sao đâu.

    Nhưng chuyện lứa đôi chờ đó, bây giờ lo mần ăn cái đã, có xe nhưng chưa có ngựa. Hai Bươn môi giới mua lại con ngựa ô trường đua đã thải ra nhưng còn sung sức. Mai lo tẩm bổ cho Hường, Hường lo tẩm bổ cho ngựa ô. Xà ích gốc nài đố ai qua được, tiếng lục lạc treo cổ ngựa kêu leng keng, Mai làm "lơ" đón khách, cái miệng dẻo quẹo dễ thương của Mai bù lại tánh ít khi tỏ ra vồn vả của Hường đã có nhiều mối, đôi khi chở hàng đến tận Bà Chiểu, Bến Thành...

    Gái miệt vườn ra nơi đô hội, thấy cái gì cũng lạ. Một lần trên chuyến xe về chợ Phú Nhuận có ông khách nhìn như thầy ký, trắng trẻo đẹp trai mang kính, ôm cặp da sang trọng cứ nhìn Mai đăm đăm, cô mắc c cúi nhìn xuống chiếc áo phin trắng của mình bị hở ngực tại cái nút bóp mắc dịch, nhưng anh chàng "thầy ký" ngó ra bên ngoài, giả bộ như không nhìn thấy.

    Đêm về, Mai cứ nghĩ vẩn nghĩ vơ...

    Hường lui cui cắt miếng vỏ xe hơi tròng ngoài hai bánh thổ mộ tiện bằng gỗ giáng hương đã đóng niềng sắt. Mai đem chiếc chiếu bông lót dưới sàn xe để khách ngồi cho êm.

    Hai Bươn đánh xe ngang qua, quay nhìn Hường tủm tỉm cười rồi xướng lên bản vọng cổ: "Tình anh bán chiếu"... nghe não lòng, tê tái buốt tâm can, mùi tận mạng hơn Nghệ sĩ Út Trà Ôn.

    Tiếng vó ngựa gõ trên đường lót đá "lộc cộc" như tiếng song lang.

    Nhưng tâm hồn Mai không còn hứng thú, háo hức như khi đi xem nài Hường rạp mình trên lưng con Phi Long trong trường đua ngựa Phú Thọ ngày nào.

    Ở gần bên nhau, va chạm hằng ngày, Mai thấy lộ dần tâm tư của Hường khó hiểu. Nhiều lần Hường ra sau vườn ngồi một mình, mắt đăm đăm nhìn về nơi xa vắng, Mai nấp sau giàn trầu định nhảy ra hù cho Hường giật mình chơi... Đột nhiên Mai nghe tiếng thút thít, Hường đang khóc, âm thanh như ứ nghẹn. Cô thở dài lui gót.

    Từ ngày tình cờ gặp anh "thầy ký" trên xe, Mai đâm ra so sánh với Hường. Một đằng bảnh bao, cao to trắng trẻo, một đằng ốm nhách đen đúa nhỏ thó như cò ma.

    Ngày còn thơ dại, tâm hồn vô tư lự. Hai đứa cùng xóm, học một trường, thi xong tiểu học cùng nghỉ. Hường hiền lành như cục bột, bà Tư và Mai coi như người nhà. Qua tuổi dậy thì, Mai phổng phao ra dáng thiếu nữ, ngược lại Hường như bị "đẹt" không chịu lớn.

Được tập làm nài, Hường nhanh nhẹn hơn lên, oai phong trong bộ đồ kỵ sĩ và được cưỡi trên lưng con ngựa trường đua.

    Tâm lý của các cô gái đến tuổi cập kê khó hiểu bội phần. Không, phải nói khó hiểu trăm lần chưa đủ.

Nhiều lúc bà Tư nằm võng đu đưa, nói như nói lối:

“Một quan là sáu trăm đồng

Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi

Chồng tôi cưỡi ngựa vinh quy

Hai bên có lính hầu đi dẹp đàng” 

    Bà ngâm nga cho vui hay muốn nhắn gởi gì ở cô con gái yêu quý của bà và "nài" Hường?

    Sau này, mỗi lần bà Tư "ca" kiểu như vậy, Mai đâm ra mơ mộng nhưng lại "chọc quê" nài Hường:

    - Ông có đi học đâu mà đi thi, để "vinh quy bái tổ"?

Nài Hường làm gì có bạn thân nào như Dương Lễ đã cho vợ mình là nàng Châu Long chăm sóc, giúp đ để Lưu Bình thi đỗ đại khoa?

    Hường nhìn hoàng hôn tím thm màu mây, ửng lên tia nắng cuối ngày...

    Những đêm khuya thanh vắng, bà Tư thỉnh thoảng nghe tiếng hự hự nho nhỏ ngoài vườn. Ánh trăng lưỡi liềm treo lơ lửng trên nền trời xanh trong, dưới giàn trầu xanh um rậm lá, bóng dáng nhỏ con của Hường tấn, thối... 

    Từ trong sâu thẳm của tâm hồn mình, Hường nung ý chí vươn lên. Hoàn cảnh mồ côi, không có điều kiện thoát nghèo bằng con chữ. Khi Hường lên bảy được ông tám Dậu đem về làm nghĩa tử. Ông tám Dậu tóc búi tó, nghe nói ông từ núi Tà Lơn hạ sơn. (Núi Tà Lơn người Khmer gọi là núi Bokor thuộc tỉnh Kampot - Vương quốc Campuchia). Không hiểu ông theo đạo gì, quanh năm chỉ mặc bộ bà ba trắng, tướng tá quắc thước hiên ngang, không nghe nói đến vợ con.

    Ông dạy cho Hường, hy vọng những thế võ truyền đời không bị mai một, mong một ngày mai Hường đem những gì lãnh hội được từ ông giúp ích cho đời, bảo vệ non sông và góp phần diệt lũ cường hào ác bá.

    Hoài bão của ông tám Dậu chưa thành, năm Hường gần mười hai tuổi ông đã quy tiên. Một lần nữa mồ côi cùng mảnh vườn con ông tám để lại. Ngày ấy, đến trường chỉ tốn tiền sách vở, bút mực. Ngoài thời gian đi học, Hường tầm sư học thêm võ. Hường như cây cỏ dại giữa trời, phần số nào sẽ đẩy đưa Hường làm "quất (quýt) Hoài Nam hay Hoài Bắc?"(**)

    Con ngựa ô gầy còm kéo xe thổ mộ, người ta cố tình che mắt nhưng không mù, còn gắng ngẩng cao đầu cất vang tiếng hí dù phải chạy theo hướng giật của dây cương. Hường nhìn quanh bốn bề yên ắng, mặt nước hồ trong xanh không gợn sóng, nhưng phản chiếu những tầng mây u ám. Vầng ráng đỏ báo hiệu mưa giông đang kéo về, tiếng ùng oàng từ đằng kia, xa tít tắp.

    Thế hệ Hường đang bơi trong sương mù, không định hướng. Chiến sự lan dần, miền quê thân yêu của Hường không còn yên bình.

    Lòng phân vân với tuổi đời vừa chớm đôi mươi, ngơ ngác "tấn thối lưỡng nan". Thân trai thời buổi loạn ly như chiếc lá giữa dòng, "biết chọn một dòng hay để nước trôi"? Hay làm con ngựa mù chăng ?

 

 (*) https://sites.google.com/.../thu-vien/10-bai-quyen-qui-dhinh"

(**) Cổ học tinh hoa. Nguyễn Văn Ngọc

 

SƯỚNG “CÙ LẦN”

    Hai Sương cố cạy hòn đá nằm ngăn mạch nước, ai dè cả tảng đổ sụp đè hai chân gãy ngang ống quyển. Đời chó đẻ, đùm đế vợ con lên cái xứ khỉ ho cò gáy cũng không yên.

    Sáu Sướng nghe tin anh mình bị nạn vội bỏ hết chuyện nhà, lận lưng tiền bán mấy con heo lên bệnh viện thăm nuôi anh. Ông bà cả Di không biết có ý gì mà đặt tên con toàn chữ S: Hai Sương, ba Sanh, bốn Sự, năm Sung, sáu Sướng…

    Ra đời cách nhau năm một, ngũ hổ tướng thời Thục Hán dũng mãnh ít ai bì nhưng năm thằng con nhà cả Di hiền khô. Chậm chạp nhất trong nhà, ít nói siêng làm là sáu Sướng, nên ông cả Di gọi là Sướng “cù lần”!

    Cù lần là động vật hiền lành, khờ khạo hay còn gọi con cu li, xấu hổ, khỉ gió. Sống vào ban đêm, ngày ngủ. Khi gặp tiếng động hay người chỉ biết cuộn tròn thân mình, dùng hai tay che kín đôi mắt. Đối với cù lần khi không thấy gì, nghĩa là không có gì nguy hiểm cả.

    Từ hai Sương đến năm Sung, khi đủ lông đủ cánh thì bay, đứa vào tận Saigon đứa lên cao nguyên đứa ra miền Bắc. Hầu như từ chăm sóc cha mẹ đến việc trong nhà ngoài ngõ, chỉ mình sáu Sướng “cù lần” lui cui quán xuyến.

    Nhiều lúc bà cả Di than thầm:"Trong nhà suốt ngày không nghe tiếng nói!”. Ông cả Di chúi mũi vào mấy cuốn sách với bình trà, còn không thì vác cuốc ra đồng hoặc khề khà với mấy ông bạn già. Nhưng chỉ cần nghe bà ho nhẹ một tiếng hay rêm mình rêm mẩy là hai cha con quýnh quáng như gà mắc đẻ.

    Từ hôm Sướng “cù lần” đi, hai ông bà than ngắn thở dài. Đêm nằm cứ trở mình khó ngủ, ông cả chắp tay sau đít đi tới đi lui, làm bà sốt ruột:

    - Thằng Sương có chi không hè? Hắn đi ba tám ngày rồi, ông có nghe hắn nói gì không?

    Ông chỉ tay vào cái điện thoại cùi bắp của Sướng “cù lần” để lại ở nhà:

    - Hắn nói không sao!

    Thật ra lòng ông cũng lo ngay ngáy, ngày nào ông cũng lật qua lật lại cái điện thoại, nhưng nó như cục gạch nằm im ru. Có khi nó hết pin rồi không chừng!

    Bà không biết ổng nói “hắn” là thằng nào, thằng Sương hay thằng Sướng? Hồi còn nhỏ cũng lo, đến khi có vợ có con lại càng lo hung! Không biết chết rồi có còn mang nỗi lo theo không? Càng nghĩ lung, bà càng nhớ mấy đứa cháu nội quay quắt…

    Năm kia Sương dắt hai đứa con lớn về, gầy nhom đen như mọi núi. Bà Cả dụ ở lại với bà, nhưng hình như chúng nó học thói cù lần, lấy hai tay che hai con mắt không nói không rằng.

   Thời ông bà còn trẻ, cả làng nổi đình nổi đám quanh năm. Chuyện đồng áng mỗi năm chỉ có hai mùa tháng ba, tháng tám vậy mà vẫn sung túc an vui. “Tháng Giêng là tháng ăn chơi, tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè…”. Bà con cả làng như gia đình lớn, tình làng nghĩa xóm thắm đượm gắn bó keo sơn. Tình người đáng lý ra phải lan tỏa và thăng hoa theo ân tình cuộc sống, nhưng sao cứ nhạt dần như nước ốc luộc lần ba, lần tư…

    Hôm kia, ông Hương Giảng chết không có người khiên quan tài, trẻ trai “thoát ly” ruộng đồng bỏ lại bọn già như bó củi khô. Bây giờ bếp núc xài Gaz, thân gỗ mục dần lên rêu lên mốc theo nắng theo mưa.

    Mái ngói âm dương của căn nhà sống đã bốn đời, cứ mỗi ngày một tàn tạ, chằm vá đủ kiểu bằng những tấm nylon nhiều màu sắc, nghe như reo phần phật thở than khi trời trở gió. Thế hệ nối tiếp như đám con ông, ngày càng nghèo càng khổ lấy đâu tu bổ từ đường.

    Sáu Sướng “cù lần” bỏ túi xách lên chõng tre, mồ hôi túa ra ướt đầm lưng áo. Bà Cả hỏi dồn hỏi dập:

    - Hắn ra răng? Khỏe chưa, khi mô hắn dzề? Mấy đứa nhỏ mô, sao mi không dắt về một đứa? Ông ơi là ông, cái thằng…

    Bà khóc bù lu bù loa, ông Cả ngồi lặng thinh vân vê điếu thuốc lá đã tắt ngấm từ lâu.

    Hai Sương đã chết vì nhiễm trùng, qua hai lần mổ ghép xương. Sáu Sướng lấy hai tay che mắt như con cù lần, nuốt nước mắt mặn chát vào trong.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

TRĂNG TREO MÁI LÁ

Tôi đi loanh quanh vì không biết đường, vác trên vai bao tải nặng trịch. Bỗng nhiên cô gái từ trong nhà bước ra chận đường: - Anh tìm ai mà...