Hai Tung có ba anh em, hai trai một gái. Nhà nội gọi thằng Hai, nhà ngoại gọi thằng Tư, không biết đâu mà lần. Gần nửa đời người, hắn mới biết nỗi buồn thời son trẻ của mẹ. Nhà ngoại giàu, đông con. Từ đường Núi Thành, trước tượng đài 2-9 trải rộng đến sông Hàn là quê ngoại của tư Tung. Những nhánh rể đước cắm sâu vào bờ sông là những chiếc cầu kỳ diệu của thời ấu thơ, lật đá bắt cua, sóng gợn lăn tăn vỗ vào mạn thuyền lan vào bờ ì ọp. Hàng dừa xanh tỏa bóng mát nghiêng mình bên dòng nước trong veo thơm lừng mùi rong rêu đồng nội. Hắn đã từng bơi men theo đảo Xanh đến tận cầu De Lattre de Tasssigny (Trịnh Minh Thế - Nay là Nguyễn Thị Lý)…
Mẹ
thứ ba, cậu Nghĩa (Nhà thơ Tô Yên – Lê
Việt Nguyên) thứ mười hai. Cậu Bốn kể: Mẹ có một đời chồng, sinh được hai
chị nhưng đã mất từ ngày còn bé. Chồng mẹ đi kháng chiến bị Tây bắn chết, mẹ để
tang chồng ba năm, trở thành gái góa không con, khi mới hai mươi.
Ông
ngoại thương con, gởi mẹ theo ghe bầu đi buôn. Đường, quế, dầu phụng, mật ong,
tơ lụa, cau khô, trầm hương… vào tận Nha
Trang, Phan Thiết cả ở các tỉnh miền Tây Nam bộ. Khi về cá mòi thính, muối Cà
Ná, vải vóc, gạo, ngô, khoai…
Cuối những năm 40s, giao thương cách trở, ông ngoại bán hết ghe bầu. Đưa
gia đình về định cư ở làng Nại Hiên (nay phường Bình Thuận, Đà Nẵng). Ông ngoại
có căn nhà cổ ba gian, lợp ngói âm dương, những cây cột gỗ lim to cỡ vòng ôm
của tư Tung, chân đế trụ bằng đá Cẩm Thạch Ngũ Hành Sơn bề thế.
Ngày ấy, từ Cổ viện Chàm qua giếng Bộng đến ngã ba Trưng Nữ Vương – Phan
Chu Trinh (ngả ba thịt chó) dọc lên
chợ Mới rẽ phải đường Hoàng Diệu, Ông Ích Khiêm ngang qua chợ Cồn, chạy dài đến
biển Thanh Bình nhà cửa lưa thưa, những cây kiền kiền tỏa bóng mát dọc hai bên
lề đường, trên nền cát vàng hoe.
Khi
Pháp tuyên chiến với phát-xít Đức, cha hai Tung
cùng hai vạn thanh niên nông dân nghèo bị trưng tập, cưỡng bức rời quê
hương sang chính quốc làm lính thợ . (Những người
lao động này được gọi là lính thợ Đông Dương hay ONS (ouvrier non
specialize 1939-1952).
Sau khi Đức quốc
xã bị thảm bại, cha hai Tung được trở về quê hương, duyên nợ thế nào lại ở gần
kề nhà ông ngoại. Lễ cưới của ba mẹ đơn sơ, hai Tung không biết ba mẹ có yêu
nhau hay không, nhưng hai Tung cảm nhận ba thương yêu mẹ hết mực và tư Tung là
đứa cháu đầu tiên ra đời trong tình yêu thương của cả nhà ngoại.
(Như đã trình bày ở nhà ngoại là tư, nhà nội là… hai Tung)
Điều khác biệt,
hai Tung không giống đứa cháu nào của ông thầy Kiều – ông nội hai Tung. Đến bây
giờ hai Tung tự hỏi: “Hay mình có dấu ấn thị thành nhà ngoại?”. Hôm về quê viếng
lễ tang cô P., tình cờ gặp ông N. học trò của nội. Ông sống đã gần thế kỷ,
nhưng minh mẫn lạ thường, ông trầm trồ:
-
Nhìn tướng mạo và vóc
dáng của cậu, giống thầy
Kiều hết sức, tôi nhớ ngày ấy “cắp tráp” theo thầy học lễ học nghĩa.
Đồng môn cùng tôi chết hết cả rồi, chỉ còn mình tôi sống dai…
Nói
xong, ông cười khà khà…
Lời
ông N. khiến hai Tung tự hào hết sức, kể đi kể lại với anh chị em trong giòng
họ, chỉ có cô P. mới “thẩm định” được,
nhưng giờ cô đã về với ông bà.
Ngày
hòa bình cha mẹ sửa sang lại ngôi nhà ngói đổ nát thành cái chòi không giống
ai, ruộng nương bị thu tóm vô hợp tác xã, cả nhà hai Tung đi làm lãnh công
diểm, cuối mùa quy thành thóc lúa, độn thêm sắn lát, ngô, khoai ăn không thấy
no. Nhìn quanh, nhà nào cũng giống như mình, thôi đành an ủi sống qua
ngày.
Hai Tung đăm đăm nhìn ra đầu
ngõ, hai con trâu báng nhau, gài sừng, bốn mắt trợn trắng, gằm xuống đất, thở hồng
hộc. Hai Tung túm bó rạ, xoắn như đan tóc. Rạ còn tươi chỉ có khói, không thấy
lửa. Miệng hét, tay quơ quơ.
Con trâu kia coi bộ yếu thế, lùi dần. Bỗng
nghe tiếng “rắc”, trâu hai Ngạn gãy sừng. Trâu gãy sừng dị hợm, không ai để cho
sống. Khác với ý nghĩa lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, ngoài Bắc.
Lễ hội chọi trâu là lễ hội truyền thống của người dân vạn
chài tại vùng biển Đồ
Sơn, diễn ra vào ngày 9 tháng 8 Âm lịch hàng năm.
“Dù ai buôn đâu bán đâu / Mùng chín
tháng tám chọi trâu thì về / Dù ai buôn bán trăm nghề / Mùng chín tháng tám nhớ
về chọi trâu”
Lịch sử lễ hội chọi trâu gắn với huyền thoại
về một cô thôn nữ xinh đẹp tên là Đế. Do có thai với vua Thủy Tề, bị dân làng phạt vạ, quan lại
địa phương mang cô ra ngoài khơi Hòn Độc
dìm chết. Cô gái oan ức, hiển linh, người dân lập đền thờ, gọi tên đền Bà Đế, linh thiêng. Nơi bà chết, tôm
cá kéo đến tập trung, năm này qua năm khác, các vạn chài kéo đến đánh cá. Về
sau, nhớ công ơn bà nên tổ chức Lễ hội chọi Trâu. Những con trâu thắng, mang ra
biển cúng tế Bà Chúa.
Nhiều địa phương khác hay lưu truyền câu “Trống làng nào làng ấy đánh, Thánh làng
nào làng ấy thờ",
thì lễ hội chọi trâu Đồ Sơn gắn với truyền thống "trống
mọi làng cùng đánh, thánh mọi làng cùng thờ"
Mặt trăng có liên hệ mật thiết với thủy triều. Hình ảnh đôi trâu chọi
nhau dưới ánh trăng bạc trong truyền thuyết về hội chọi trâu ở Đồ Sơn, đã phản
ánh mối liên hệ giữa mặt trăng và biển cả. Đôi sừng trâu cũng chính là hình
tượng của mặt trăng khuyết, gắn với thần Độc Cước mà dân miền biển vẫn tôn thờ.
Vì lẽ đó, trâu chiến thắng trong lễ hội được đưa lên thuyền, mang ra
khơi xa, hắt xuống biển để tế thần. Về sau, những trâu giải nhất hàng tổng,
được rước bát hương đền
Nghè và rước cờ đại "Thượng đẳng
thần" về làng. Sau đó được dân làng giết thịt làm lễ hiến sinh, tế lễ
dâng Thành hoàng. Xin Thành hoàng cho mưa thuận gió hòa, sóng yên biển lặng,
cho mùa đánh cá sau được may mắn, thuận lợi.
Sau lễ hội, trâu thắng trâu thua đều bị giết thịt. Ngoài ý nghĩa tâm
linh, lời nhắn nhủ của tiền nhân: Sự
tranh giành hơn thua với đồng loại, cuối cùng số phận cũng giống nhau. Hãy đồng
lòng, cùng nhìn về một hướng.
Nhưng
khó khăn quá, bà con cật ruột cũng đâm ra đố kỵ, tranh hơn tranh thua. Nhân tâm
ly tán có phải vì nghèo? Không đâu, nhà ông đồ Kiều có khá hơn ai, dù không
thân thích nhưng bà con trong làng đùm bọc, tương trợ sớm hôm. Người mẹ thành
thị của hai Tung tâm hồn phóng khoáng, tận tình giúp đở những hoàn cảnh nghèo
khó hơn mình. Vậy mà có người trở mặt vong ơn, làm sao họ có thể dạy con dạy
cháu nhân nghĩa làm người?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét