Bà Hằng mở cửa sổ nhìn sang nhà chị Tám, giờ này lũ trẻ im ắng dưới ngọn đèn điện tù mù nghĩa là chị vẫn chưa về.
Bà Hằng cũng theo chồng ra Quảng Trị, ông là cấp chỉ huy của chồng chị
Tám. Thị xã Đông Hà chìm trong màn sương
ẩm đục xen lẫn gió rét tàn đông. Những ngày giáp Tết Tân Hợi – 1971 thật bình
yên, dòng sông Thạch Hãn xanh trong lững
lờ trôi xuôi về Cửa Việt. Sông Thạch Hãn nối với sông Bến Hải qua sông Cánh Hòm,
đến ngã ba Cổ Thành chảy vào sông Vĩnh Định gặp sông
Nhùng (Mai Đàn) đến huyện lỵ Phong Điền hòa vào dòng sông Ô Lâu (Thác Mã)
ra phá Tam Giang.
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam
Giang... (Ca dao)
……..
Bà Hằng vốn là cô giáo thời tiểu học của
chị Tám, từ quê nhà miền Nam xa xôi gặp nhau nơi tuyến đầu Tổ quốc. Bà bước sang
nhìn hai đứa con chị Tám mặt mũi lem luốc khóc như ri:
-
Bà tắm cho các con, Hồng Nhi lấy áo quần bà thay.
-
Áo quần mẹ chưa mua, chỉ còn đồ cũ thôi!
-
Mai bà dắt ra chợ mua cho con áo đầm thật đẹp, cho
em Trung bộ quần áo lính
như ba.
Căn nhà khu gia binh đơn sơ, ánh đèn điện
vàng ệch. Đơn vị đã hành quân về hướng Khe Sanh từ mấy ngày trước, chị Tám buôn
bán đồ Mỹ từ khẩu phần lương khô, gạo sấy, thịt hộp, ba-tê, thuốc lá, cà phê…
Nghe tin chồng mất tích trong trận Hạ
Lào. Từ hậu cứ Đông Hà, chị gởi con rồi tất tả lên Cam Lộ chờ tin. Đoàn xe nhà
binh hối hả chạy ngược về hướng chị chở theo thương binh cùng những người tù
binh đã được băng bó ngồi xen lẫn bên nhau.
Hồng Nhi ôm lấy bà méo mó:
-
Ba
con không về hả bà?
Thằng Trung chạy lon ton, chiếc áo lính quá khổ, không mặc quần, hắn cùng đám trẻ con chơi trò
“bịt mắt bắt dê”. Chú Rân “hậu cứ” nhìn ra bãi đáp trực thăng hét
lên với lũ nhỏ:
-
Đại
bàng về rồi, ba tụi bay sắp về rồi! Tết muôn năm,
hoan hô Tết muôn năm.
Từ trên trực thăng chuyền xuống chiếc băng ca với một thân hình đầu cổ
quấn băng loang máu đỏ đã sậm màu. Chú Rân chạy ào đến nhìn mặt rồi đưa hai tay
lên trời chới với:
-
Ôi
“đại bàng”!
Bà Hằng chết điếng khuỵu xuống bên thi thể của chồng, bà ôm choàng thân
thể của ông rồi dụi đầu vào mái tóc và khuôn mặt bất động, hai má bà hồng lên
vì màu máu.
Khu Vĩnh biệt không chỉ có chồng bà, băng gỗ không còn đủ chỗ cho những
người đã nằm xuống từ chiến địa. Thị xã Đông Hà đìu hiu trong ngày đầu xuân, chiếc
cầu bắc qua sông Thạch Hãn oằn mình dưới đoàn xe nhà binh chuyển quân ra mặt
trận, phía tây về hướng Lao Bảo bừng lên ánh chớp sáng lòa của đạn pháo và
tiếng rít lao đi của những chiếc phản lực cơ vang lên trong đêm đen mờ mịt.
Bà chợt nhớ đến lần đi ủy lạo ở bệnh viện dã chiến Đông Hà, những người
lính của đối phương bị thương lẫn chiến hữu của chồng bà đang được điều trị tại
đây rên la đau đớn. Lòng bà bồi hồi xúc động, nhưng dù sao họ cũng được may mắn
hơn chồng chị Tám, anh đã bị bắt hay thân xác đã chôn vùi nơi đâu! Chị lại bỏ
con thơ đi tìm chồng và chờ tin trong vô vọng.
Nơi đây bà Hằng và chị Tám đã không còn gì, bà ngồi bên chồng trong
chiếc trực thăng bay vào sân bay Phú Bài, từ đó theo máy bay quân sự về Saigon.
Ông đã ra đi bỏ lại đồng đội ngoài kia trong sự chiến đấu kiêu hùng lẫn bi
thiết của cuộc chiến đẫm máu tương tàn.
Có bao nhiêu quả phụ được như bà, dù tan
nát cõi lòng nhưng vẫn còn được ôm thân xác chồng khi ông nằm xuống, được
ngồi nhìn di ảnh của chồng. Bà như bừng
tỉnh vì được may mắn hơn biết bao người, sự an ủi trong đớn đau và chia sẻ.
Những người chiến sĩ vô danh của cả hai miền mãi mãi vùi xác thân trong rừng
già, trong hầm hố hay trên chiến địa hoang tàn
Bà Hằng tình cờ gặp chị Tám ở chợ thuốc tây
chui Tân Định, chồng chị bị bắt làm tù binh và sử dụng như dân công hỏa tuyến,
anh được thả về sau ngày tàn cuộc chiến.
Anh Tám gặp lại bà mừng mừng tủi tủi lẫn
xót xa khi nhớ đến cái chết anh dũng của người chỉ huy năm nào trên mặt trận Hạ
Lào. Anh vẫn cung kính với bà như xưa, tình huynh đệ chi binh anh nguyện suốt đời
gắn bó. Hồng Nhi xinh xắn với tuổi dậy thì nhanh nhẹn phụ mẹ phân loại thuốc
tây, những gói quà gởi về từ nước ngoài. Em khựng lại khi ngờ ngợ đọc tên người
gởi: Lê Trọng Rân…
-
Mẹ! Có phải chú Rân “hậu cứ” không mẹ?
Chị Tám nhìn tên và địa chỉ người nhận từ
tay Hồng Nhi, chị bỗng nghẹn ngào thảng thốt:
-
Ôi trời! Địa chỉ cũ của cô Hằng…
Ký ức khu Bàn Cờ năm xưa gợi vào tâm trí
chị con đường đi học len lỏi vào từng khu dân cư nghèo nàn nhưng thắm tình của người
di cư. “Chợ Bàn Cờ” trưng bày hàng hóa dọc theo những con hẻm nhỏ, tan trường
chị theo cô Hằng về nhà. Cô ở với mẹ, thỉnh thoảng chị mới gặp chồng cô, ông đi
lính xa nhà…
Sự rộn rã niền vui và an bình trong những ngày
Noel của thời thơ ấu đã khiến chị ngạc nhiên khi nghĩ về hiện tại. Những người
hàng xóm hiền hòa quanh chị bỗng trở thành con người khác sau ngày đất nước hòa
bình. Ông tám Lân chạy xe ba gác hay chị năm Na bán chuối chiên trở thành cán
bộ, đã “động viên” gia đình chị và mẹ con cô Hằng đi kinh tế mới và hứa hẹn đủ
điều. Họ không còn thân thiện như khi gia đình chị hoặc cô Hằng giúp đở họ
trong những lần khốn khó. Bà Hằng không thể ù lì như chị, họ sợ đến cái “di ảnh”
của ông, dù chồng bà đã mất. Chị hối hận khôn cùng khi không hỏi địa chỉ rõ
ràng của bà, chỉ nghe loáng thoáng khu kinh tế mới Bù Đăng – Bù Đốp… Chị sai
Hồng Nhi gọi cha về gấp. Anh Tám đang thiu thiu trên xe cyclo chờ khách, giật
mình khi nghe con réo giật ngược:
-
Mẹ kêu ba về gấp! Về lẹ lên ba…
Hồng Nhi leo lên xe, thân hình nhỏ bé của
anh Tám vẹo qua vẹo lại trên yên xe cyclo trông như làm xiếc.
-
Anh thu xếp đi liền, lên Bù Đăng – Bù Đốp! Đường
sá ở trong miệng…
Chị nói như ra lịnh, anh ngẩn người khi
nghe rõ nguyên do rồi đạp xe trả lại cho chủ anh đã thuê ngày, vội vàng mang
theo gói quà ra bến xe Chợ Lớn.
Bù
Đăng thuộc quận Đức Phong của tỉnh Phước Long (Bình Phước). Anh Tám dùng đủ loại
phương tiện, từ Saigon xuống Thủ Dầu Một – Bình Dương lên Tân Uyên qua Đồng
Xoài băng qua con đường đất đỏ ven rừng cao su bạt ngàn tìm về Bình Long. Anh
đã từng cùng đơn vị trấn thủ nơi này, vùng chiến địa đã đi vào quân sử, máu
xương của đồng đội anh và những người lính bên kia lẫn người dân Stiêng – Sóc
Bom-Bo đã vun xới cho cây cỏ rừng Cát Tiên đượm xanh màu hoa lá…
Từng dãy nhà tranh nhấp nhô xa tít trên
vùng đất bạt ngàn đã được khai hoang, những đoàn người đi ngược chiều anh râm
ran chuyện trò bằng giọng Saigon chính hiệu nhưng đen đúa và lam lũ như người
Stiêng! Không có ấp nào mang tên “Bàn Cờ”,
chỉ có những tên nghe hào hùng như khi còn chiến tranh: Thống Nhất, Anh Dũng,
Toàn Thắng, Vinh Quang…
Cuối cùng anh cũng đến được nơi cần tìm.
Ven con đường xe be cạnh lô cao su, cỏ tranh vươn lên che khuất hai nấm mộ đất
hoang sơ. Ai đó đã khắc vào gốc cây cao su già: “Mộ phần mẹ con bà Lê Thị Lệ Hằng, tạ thế ngày 20.3” nhưng không ghi năm nào.
Anh Tám quỳ lạy hương hồn người đã khuất,
rồi dùng tay đào giữa hai ngôi mộ hố nhỏ
và trịnh trọng đặt gói quà của người đồng đội năm xưa từ bên trời Tây gởi về
cho bà. Anh lẩm bẩm:
-
Dù sao bà cũng có nơi để về, “Sinh ký tử quy” và
được sum họp cùng ông!
Gió đông về hiu hắt, lá cao su vàng úa rơi
lác đác trên thảm cỏ xanh như những oan hồn còn nằm đâu đó giữa mênh mông rừng,
dưới màu trời u ám của chiến địa năm nào.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét