Người thanh niên đi sau vượt qua, hích cùi chỏ vào ông. Ông dừng lại nhìn theo, lẩm bẩm:“Thân hình thật đẹp! Tuyệt…”.
Ông rảo bước nhanh chân, chạm tay vào bờ
vai vững chãi. Người thanh niên quay lại, đưa hai bàn tay hộ pháp nắm cổ áo,
ông Đề nhẹ nhàng xỉa hai ngón tay vào cổ, hắn buông. Đôi mắt ốc lồi hằn lên tia
đỏ.
Ông nhìn thẳng vào mặt hắn, nhỏ nhẹ:
-
Anh
có thân hình tuyệt mỹ, nhưng…
-
Nhưng
sao?
-
Nhưng…
phá tướng!
-
Phá
cái gì?
-
Anh
đi hai tay vung vẩy rất hiên ngang, nhưng cái
đầu
cúi xuống!
Hắn nhổ nước bọt, quay ngoắt.
…………
Tự nhiên ông nhớ người bạn cũ, làm quan
to, to lắm. Cũng dáng điệu như thế này. Ngày xưa, ông không biết gì về nhân tướng
học, nhưng từ khi về vườn ông thèm đọc sách. Ôi! Cám ơn những tác giả đã cho ra
đời những tác phẩm làm thăng hoa cuộc sống.
Mà lạ thiệt! Trên đường phố hoa lệ hay
thôn dã ai cũng cúi đầu. Tại sao vậy hè? Thậm chí có khi ông cũng cúi đầu, mà
không hay! Ngoại trừ loại dốt nát “thời
lai đồ điếu thành công dị…” như bạn của ông. Mặt hắn nghếch lên, nên luôn
nhìn thấy các ô cửa sổ sáng trưng của những tòa nhà cao tầng nghênh ngang giữa
phố hoặc cao hơn nữa như những áng mây bay lang thang trên bầu trời, muôn hình
vạn trạng có khi mang theo hiễm họa bão tố sấm sét khôn lường nhưng hắn nào
hay! Hắn… mù giữa đời thường!
Ông Đề thật khó tính hay ông được giáo dục
trên nền tảng văn hóa “cổ lổ sỉ” nhìn
đâu cũng thấy chướng tai gai mắt?
Phải “ôn
cố tri tân” nhưng văn minh kỹ thuật mình phải học hỏi người ta mới theo kịp
thời đại, cái gì hay phải học! Nhưng bản sắc văn hóa dân tộc không thể lai căng.
Bà cằn nhằn ông đủ điều:“Hơi đâu ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng?”
Ông tự ái, nhưng nhịn. Mấy đứa con ông đều ngoan hiền và học giỏi. Lễ phép, biết
kính trên nhường dưới, ông thầm khen và tự hào khi có người vợ đảm đương như bà
trong việc tề gia nội trợ. Còn ông mải mê và cần mẫn đưa bao thế hệ học trò
sang sông, đôi khi ông quên hẳn việc sinh kế trong nhà, chỉ mình bà tần tảo sớm
hôm.
………
Ông Đề lơ ngơ như mộng du, xớn xác thế nào lại va vào bà đi xe đạp bán
đậu hủ. Ông chưa kịp xin lỗi, người đàn bà có vẻ luống tuổi, dáng kham khổ đã
vội vàng tụt khỏi yên xe, hỏi nhỏ:
-
Ông
có sao không?
Ông lúng túng, cảm thấy thương hại, tò mò:
-
Chị
được nhiêu tuổi rồi?
Bà nhìn ông, không trả lời.
Hỏi vậy chớ đoán già đoán non, bà cũng tròm trèm tuổi ông.
-
Có
con cái chi không, mà chị vất vả thế này?
Bà quay sang hướng khác, đôi mắt đỏ hoe, nhưng không vằn tia máu như anh
chàng thanh niên lúc sáng. Ông tìm trong túi, không thấy tiền. Ông đứng nhìn
theo, thở dài.
Không biết vì ông đa cảm thường hay chạnh lòng với những người khốn khổ
hay ông sắp xa lìa cõi tạm nên lòng vương vấn đa đoan.
…………
Chỉ khi ông nhìn ra vườn cây kiểng đối diện, cành lá xanh mơn mởn dịu mắt,
tâm hồn ông an nhiên phơi phới. Những bụi cây dại dưới chân hàng rào kẽm gai
đầy hoa ngũ sắc li ti, rung rinh trong gió. Ông lắng tai nghe bên vườn cây nhà
Ngộ:
-
Đ.
Mẹ! Chúng nó là ma, tao canh mấy đêm đéo bắt
được. Lúc thì con chó,
lúc “móc” rách toạc bụng con mèo. Ông
tóm được, chết mẹ chúng mầy!
-
Ma
cỏ gì, một lũ lưu manh, đầu trộm đuôi cướp. Tối
hôm qua tao thấy bọn nó
đánh chén tưng bừng ngoài chòi canh.
Giọng anh Ngộ trầm hẳn xuống:
-
Đôi
khi tao phải bịt mũi qua sông, giả lơ giả điếc. Hội
hè đình đám, chúng nó
đem xe vô chở mấy chậu kiểng đang kỳ khoe sắc. Xong việc vất chỏng chơ, tao
phải lai về. Chúng nó đích thị ma trơi. Thấy chớp, vụt biến mất. Hỏi thằng này
đổ thừa cho thằng kia, không thằng nào chịu.
-
Đâu
phải của tiên sư cha nhà chúng nó. Lần sau đừng
mơ nhé!
Ngộ nhỏ nhẹ:
-
Đất
có Thổ công, sông có Hà Bá, vì miếng cơm manh
áo, đành nhịn thôi mấy
chú!
-
Nhịn
là nhịn thế nào? Sao mầy hèn thế! Lần sau cứ
để đấy cho ông!
-
Thôi
ông “kễnh” ạ! Một thân một mình làm
gì chả
được, tao dân tha phương
cầu thực, đang lo kiếm gạo nuôi con...
Ông Đề chán ngấy mớ “cải cách” trong giáo dục. Phụ huynh
không thể theo kịp để cùng nhà trường dạy con, xã hội không đồng bộ để dạy trẻ
chữ nghĩa và học làm người. Cả một lũ sâu bọ gặm nhấm và phá tan hoang khu rừng
đang xanh tươi của nền văn hóa dân tộc. Chúng không đủ kiến thức, tâm lý sư
phạm để điều hành và không hiểu tầm quan trọng của “trăm năm trồng người”.
Đám cháu nhà ông, thế hệ sau tệ hơn thế hệ
trước, ông cũng tự hào vì chúng rành rẽ về “công
nghệ”, nhưng từ thằng cu Tủn lên năm đến con Ngà sắp thi tốt nghiệp, ngày
nghỉ mỗi đứa như một ốc đảo. Chưa bao giờ những người già như ông lại cảm thấy
cô đơn như bây giờ, dù gia đình ông “tam
đại đồng đường”…
Nhưng chính ông, ông cũng tự lui vào ốc
đảo của mình, những lời răn dạy của ông với con cháu, chúng vâng vâng dạ dạ rồi
bỏ ngoài tai, riết rồi ông im lặng. Sự im lặng của ông mới nặng nề làm sao! Con
cháu ngại ngùng khi muốn tỏ bày, không còn thân thiện vui đùa cùng ông như khi
chúng lên năm lên ba. Bà thì thầm an ủi ông:
-
Thôi ông ạ, mình chỉ dạy con, con mình dạy cháu.
Quan niệm sống mỗi
thế hệ mỗi khác.
-
Nhưng khác thì phải tốt hơn lên chứ! Ai đời…
Ông bỏ lửng.
Đêm gần sáng, tỉnh lặng. Tiếng động cơ ầm
ì của chuyến xe sớm vọng đến tai ông. Những đôi vai kẻo kịt với gánh hàng rong
nặng trĩu, thầm lặng chiếc bóng trải dài dưới ánh đèn đường vàng vọt trên đường
phố ngang qua nhà, lòng ông dâng lên niềm xúc cảm lạ lùng. Người phụ nữ tảo tần
sớm hôm ấy là hình ảnh của mẹ ông ngày nào, nhưng ngày ấy ông vô tư lự như lũ
cháu nhà ông bây giờ. Ông chưa kịp làm gì để mẹ ông vui, bà đã mất.
Cơn mưa kéo về từ bên
kia, không phải là cơn mưa của những ngày xưa cũ, nhưng đã thấm ướt đôi vai và
những giọt nước li ti, đã tô điểm mái tóc bạc của ông óng ánh dưới ánh đèn.
………..
Năm mươi năm, thời
gian không hề phai nhòa hình bóng cũ, ông Đề nhìn ra khoảng không gian bao la bừng
lên dưới ánh nắng chói chan của ngày hè, đời ông sẽ vô nghĩa nếu xa rời nghiệp
dĩ văn chương, nhưng những áng mây đen như tà áo của mụ phù thủy với chiếc mũi
nhọn hoắt cùng lưỡi hái cứ ám ảnh ông trong những đêm mất ngủ, nguồn cảm hứng một
thời bị dìm chết thô bạo trong niềm thất vọng và chán chường.
Cái đói
khát cứ thường trực như tia nắng mặt trời và bóng đêm. Đôi khi ông cố nhắm mắt,
đưa tâm hồn phiêu du về những ngày xưa cũ, cái thời nắn nót viết tựa đề, vẽ
những nụ hoa trên giấy stencil với cây bút sắt hay gõ lộc cộc bằng chiếc máy chữ Remington cũ kỹ. Mùi mực in thơm nồng trên từng
trang giấy đã quay roneo, khiến ông hít hà trong niềm sảng khoái của đam mê, để
quên đi cái đói cồn cào đang co bóp dạ dày khốn khổ.
Và ông không thể an nhiên nhìn lũ trẻ gầy còm, đưa đôi mắt dại khờ, háo
hức chờ nghe âm thanh sùng sục của nồi bắp luộc. Ông không thể ngờ có ngày gia
đình ông lại thích nghi với rừng rú và khốn cùng đến như vậy. Bản năng sinh tồn
đã loại trừ những gì phù phiếm không thực tế ra khỏi đầu óc vốn được ông trời
ban cho ông, chỉ để làm văn nghệ.
Ngày ấy, bà yêu ông nồng nàn, bà cảm phục niềm đam mê văn chương và sự
tinh tế, thông tuệ của ông. Một lần ông mời và hẹn bà đi xem phim “Love Story” do Ryan O’Neal và Ali
MacGraw thể hiện mối tình say đắm nhưng đẫm nước mắt của Oliver Barrett IV và
Jennifer Cavilleri do Arthur Hiller đạo diễn.
Bà chờ ông và chờ mãi. Trời đã
hừng đông, ông vẫn miệt mài nối đuôi từng con chữ. Ánh nắng tươi vui của ngày
mới lọt vào khung cửa sổ, ông giật mình nhớ lại giờ hẹn đón bà đêm qua, nhưng
bà không hề giận. Rồi những lần hẹn sau, sau nữa… bà vẫn chờ. Chỉ những cơn mưa
bất chợt, tiếng mưa dội vào lòng, làm rung động tâm hồn, khiến ông chợt nhớ và
bà vẫn đứng trong mưa…
Ông bà ước mơ cùng tạo dựng một mái ấm đơn sơ. Tâm hồn đa cảm của ông như màu nước biển xanh
trong, mộc mạc như cánh đồng muối trắng
và màu trời xanh ngắt của vùng biển quê nhà.
Bà như chiếc bóng bên ông, khuyến khích và
nâng đở để ông được vẫy vùng, bay lượn thỏa thích trong không gian huyền ảo của
văn chương, vì văn chương được tạo nên từ tâm hồn
và cảm nhận của những người yêu nó.
……….
Những cơn mưa cuối mùa trời se se lạnh lại là mùa biển êm gió lặng của vùng đất phương Nam, đôi lần
ông hối hận định tìm đường ra đi, ông như chiếc lá tre khô lênh đênh theo dòng
nước đục ngầu, nhiểu nhương thế sự và vô định.
Sự nghiệp văn chương
của ông như khói như mây. Thanh âm cung, thương ngưng ngân, khi dây đàn đột ngột
đứt lìa. Ông ngóng về quê cũ, nơi còn lưu dấu những kỷ niệm một thời văn chương
chữ nghĩa. Sự thô bạo và đê tiện đã giết chết tâm hổn mẫn cảm của ông, lòng ông
khô khốc như đồi cát, dòng sông Hàn vẫn vô tình mang theo hoài bão của ông xuôi
về biển cả. Ông chôn chặt nỗi khổ đau và thất vọng vào tận đáy lòng nhưng những
giọt lệ nhân ái, xót xa lại dâng tràn
khóe mắt khi nhớ về những hoài niệm xa xưa.
Anh Ngộ hớt hơ hớt
hải dắt thằng con mặt mày lem luốc sang nhà ông Đề:
-
Thầy
chỉ dạy giúp con, hôm nay đi học về cháu
nói
bị nhà trường cho nghỉ hai ngày vì chưa
nộp tiền mua đồng phục và sách giáo khoa. Thầy nghĩ xem, bộ đồng phục của cháu
và sách giáo khoa chị nó vừa học năm ngoái còn mới cứng, thế mà phải mua mới.
Sao lãng phí thế hở thầy? Con cũng đã từng đi học…
Tự nhiên ông nghe nhói lòng, ông liên tưởng đến các thầy cô giáo đồng
nghiệp tại xã nghèo miền Đông Nam Bộ ngày nào. Ngôi trường trên đồi heo hút,
không bóng mát cây xanh. Học trò đủ loại trang phục, chân không giày dép, thầy
cô giáo cũng chẳng gì hơn. Đôi khi thầy muốn
góp ý với các thầy, cô giáo về trang phục, nhưng nhìn lại mình: chiếc áo trắng
đã sờn vai, ố vàng cùng chiếc quần vải sơ-vi-ốt xếp li như lò xo, phô bày hai
cổ chân tong teo bám đầy bùn đất đỏ ba-zan, lòng thầy dâng tràn niềm thương cảm
và không thể sẻ chia…
Nhưng tất cả đều bỏ lại nhọc nhằn, khó khăn cơm áo ngoài cổng trường,
chỉ còn lại nhiệt huyết của trái tim nồng nàn yêu thương và hăng say làm tròn
phận sự của người thầy.
Chưa bao giờ sự “phối hợp” trong giáo dục chặt chẽ và đồng bộ như thế này. Từ ban giám hiệu, hội
phụ huynh học sinh đến các nhà thầu, ông bảo hiểm lẫn nhà xuất bản giáo dục
chia nhau “bòn rút” những giọt máu
hồng ngây thơ của mầm non xanh tươi, thế
hệ anh tài tương lai đất nước, được nuôi dưỡng bằng mồ hôi và nước mắt của cha
của mẹ.
Hãy nhìn đi hay có mắt không tròng?
…………
Bà xót xa khi nhìn thân hình ông ngày càng còm cỏi, nhưng nỗi lòng khắc
khoải cứ như tiếng cuốc kêu trong sương chiều hiu quạnh.
Con vẹt mỏ đỏ đang bị nhốt trong lồng quen nhái tiếng người, lâu dần
quên mất tiếng kêu than của đồng loại, nghểnh cổ tự đắc hát vang bài ca chiến
thắng. Nó đã trở thành cò mồi trong bẫy rập, chiêu dụ và khoe khoang những điều
vô tưởng bằng ngôn ngữ không phải của chính mình.
Ông nhìn thằng cháu thực nghiệm ươm mầm hạt giống trong lon sữa bò và nóng lòng chờ đợi. Hắn
reo vui khi những chiếc lá xanh non run rẩy cùng thân cây trắng muốt bật lên,
rung rinh trong ánh nắng ban mai.
Nhúm đất khô tận hưởng những giọt nước tinh khôi, cây lớn lên từng ngày, nhưng đã vội èo uột và
chết rũ vì úng thủy, đáy lon sữa bò đã không được hướng dẫn cặn kẽ đục lổ thoát
nước dư thừa.
Cháu ông đã được dạy trồng cây hay đi tìm nguyên nhân cây chết? Mãi mê
gây ra hậu quả tang thương để rồi ngồi gặm nhấm và rút kinh nghiệm cho những
bài học suốt đời lầm lỗi.
Tiếng đàn cò (đàn nhị) não nuột từ nhà ai khuất sau vườn nhà anh Ngộ, hình
như có đám ma. Nhưng không, nghe xen thanh âm khác của đàn kìm, đàn tranh, đàn
tỳ bà, đàn bầu, đàn tam, song loan… lẫn tiếng sáo vi vu.
Ông Đề lần dò theo âm thanh quyến rũ. Mọi người ngưng bặt lễ phép chào,
ông khẽ khàng ngồi bên mép chiếu và khoát tay ra dấu ban nhạc đừng bận tâm.
Những người nghệ sĩ “đàn ca tài
tử” thực sự chỉ dùng đàn hát để mua vui với tâm hồn chân chất thăng hoa
ngẫu hứng, tạm quên đi sự lo toan và nhọc nhằn trong mưu sinh khốn khó.
Lời ca mộc mạc gieo vào lòng ông cảm xúc khó tả, thấm đượm ân tình bởi
giọng hát ngọt ngào của cô gái ông chưa hề gặp:
“Nhắn
ai đi về miền đất phương Nam/ Trời xanh mây trắng soi dòng Cửu Long Giang/ Mênh
mông rừng tràm, bạt ngàn dừa xanh/ Tiếng chang đước đong đưa, nhớ người xưa
từng ở nơi này/ Cho ta thêm yêu dấu chân ngàn năm đi mở đất/ Cho ta thêm yêu
bầy chim sáo sổ lồng…/ Ơi ơi hò, ơi ơi ơi ơi…hò/ Còn đâu đây tiếng vó ngựa phi/
Mà ngỡ con tàu vỗ sóng bờ xa/ Nỉ non sao tiếng nhạn kêu chiều/ Buồm xuôi vô
phương Nam phiêu bạt theo thủy triều/ Dẫu trải qua thăng trầm giông tố/ Qua bao
cuộc bể dâu, mãi dâng cho đời/ Bài tình ca đất phương Nam….”
(Bài Ca Đất Phương Nam – Lư Nhất
Vũ)
Cô hát nhưng đôi mắt đăm đăm nhìn ông, trái tim già nua hình như ngưng đập, không gian lắng đọng,
thời gian như ngừng trôi… Ông mơ hồ nghe tiếng hí vang của bầy chiến mã, tiếng
dầm khua nước của đoàn thủy quân trên sóng nước bao la… Chỉ khi nghe tiếng song
loan gõ nhịp bên tai, ông giật mình lúng túng.
Ông hòa mình vào lời ca tiếng nhạc, có lúc tâm hồn ông chơi vơi giữa
muôn trùng sóng vỗ, đôi khi như gió ngàn khơi phiêu du qua bao ghềnh thác, có
lúc phảng phất bóng dáng người xưa kiêu hùng Nam tiến thuỡ nào…
Nhưng đôi mắt ấy ám ảnh ông, người con gái miền sông nước mang tâm hồn
của loài chim quốc khắc khoải năm canh, nhớ về phương trời xưa xa ngái.
Nỗi u hoài tiếc nuối một thời đã lỡ, chim thiên di không còn rừng xây
xanh làm tổ, người người cũng tha phương, lang bạt kỳ hồ…
Không ai ngờ cô gái ấy là con cháu của danh gia thế phiệt, mượn lời ca
tiếng hát để giải tỏa lòng mình, ông giật mình và cảm thấy lòng se thắt lẫn tự
thẹn khi đọc những giòng chữ của nàng:“…Quang
Trung ơi! vó ngựa Người ngang dọc, thất đởm kinh hồn quân xâm lược Càn Long,
nhưng hậu duệ của Người là điêu tàn khốn khổ, áo vải và anh hùng sao bàn chuyện
an dân…”.
Đêm đã về khuya, tiếng đàn tiếng sáo im bặt, bao nỗi lòng như chìm đắm
trong tịch liêu, sương khói mông lung. Loài chim ăn đêm cô đơn vừa gieo vào
thinh không, tiếng kêu buồn rũ rượi…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét