Tên tôi là Lê Đ.
Chót. Trong khai sinh ghi rõ ràng như vậy. Tôi đi học, cô giáo thấy chữ lót lạ
lùng, tôi ấp úng không giải thích được. Ngày tôi sắp ra đời, mẹ hỏi cha đặt tên
tôi là gì, Cha nói gọn lỏn:“Lê Đ. (đê chấm), còn tên tùy bà…”.
Lớn lên tôi suy luận:
Có thể Lê Đình, Lê Đức, Lê Đắc… Nhưng họ nhà Lê tôi, không ai có tên lót bắt
đầu bằng chữ Đ.
Tra gia phả từ
đời cụ, kỵ và ngược lên mười đời trước nữa, toàn là Lê Trung… cho đến các anh
trai tôi cũng vậy.
Cha tôi
tên: Lê Trung Hưng.
Lâu lắm rồi,
có lần uống rượu một mình say, cha kể:
“Trong lịch sử Việt Nam, nhà Lê Trung Hưng được hình thành tiếp nối Lê Sơ. Sau khi Lê Trang Tông với sự phò tá của cựu thần Nguyễn Kim, được đưa lên ngôi báu. Đây là triều đại dài nhất so với các triều đại trong lịch sử Việt Nam với 256 năm và đây cũng là thời kỳ lãnh thổ Việt Nam được mở rộng nhiều lần nhất.
“Trong lịch sử Việt Nam, nhà Lê Trung Hưng được hình thành tiếp nối Lê Sơ. Sau khi Lê Trang Tông với sự phò tá của cựu thần Nguyễn Kim, được đưa lên ngôi báu. Đây là triều đại dài nhất so với các triều đại trong lịch sử Việt Nam với 256 năm và đây cũng là thời kỳ lãnh thổ Việt Nam được mở rộng nhiều lần nhất.
Nhưng rồi
khi Quang Trung kéo quân ra Bắc Hà, Lê Chiêu Thống hoảng hốt cầu viện quân
Thanh khiến lòng người dân bấy giờ chán ghét hơn trước và sụp đổ, dù sau này
nhiều thế lực khác nổi dậy đòi khôi phục nhà Lê cũng đều thất bại…”.
Tôi hỏi lại:“-
Đ. Là gì cha?” Cha tự nhiên cười lăn cười lộn, tôi hoảng hồn chạy mất.
Tôi là
con út trong chín anh chị em. Anh cả tôi sinh nhằm ngày 20.7.1954, chị Hai ra đời
ngày 26.10.1956, chị Ba sinh vào ngày 20.12.1960, anh Tư lại sinh ngày
01.11.1963, anh Năm bây giờ ở Hoa Kỳ, ra đời khi Mỹ đổ quân vào Đà Nẵng
(08.3.1965), chị Sáu đẻ rơi dọc đường khi mẹ tôi di tản từ Hương Trà chạy về Huế,
ngày Tết Mậu Thân (1968), anh Bảy “chà và” vì da ảnh đen thui, ra đời không
mang dâu ấn nào của lịch sử (1970), anh Tám tưởng chết rồi khi mẹ tôi chạy theo
đoàn xe nhà binh từ Ái Tử, Quảng Trị về Huế mùa hè đỏ lửa 1972. Nhưng may thay,
khai sinh của anh ghi ngày ký kết Hiệp Định Paris (27.01.1973).
Riêng tôi, sinh vào buổi sáng 30.4.1975.
Bây giờ đã hơn nửa đời người, cha tôi đã mất, đôi lần tôi định hỏi mẹ về chữ lót Đ. của tôi, nhưng mẹ móm mém cười bí hiểm như nàng Mona Lisa, Tôi lại càng vắt óc suy nghĩ về cái tên tôi, không những chữ lót Đ. mà còn tên CHÓT. Có lẽ tôi là đứa con cuối cùng chăng?
Bây giờ đã hơn nửa đời người, cha tôi đã mất, đôi lần tôi định hỏi mẹ về chữ lót Đ. của tôi, nhưng mẹ móm mém cười bí hiểm như nàng Mona Lisa, Tôi lại càng vắt óc suy nghĩ về cái tên tôi, không những chữ lót Đ. mà còn tên CHÓT. Có lẽ tôi là đứa con cuối cùng chăng?
Nghĩ đi
nghĩ lại, tôi phục cha tôi quá! Chỉ hai mươi năm trời, cha cho ra đời chín đứa.
Anh cả tôi tính nhu mì hiền lành như con gái, nhưng khuôn mặt sần sùi, khắc khổ.
Có lẽ khi mang thai anh, mẹ tôi chạy tản cư từ miền xuôi lên miền ngược. Trong
lòng cha mẹ tôi chỉ mong đất nước hòa bình. Ngày đình chiến dù còn đau buồn nhưng
mẹ cố giành ngày trọng đại để sinh ra anh cả tôi. Nhưng rồi không được bao lâu,
gia đình nội tôi tan đàn xẻ nghé. Các chú tôi bỏ lại vợ con, lên đường tập kết.
Cha tôi
được thuyên chuyển về Sài Gòn, thành phố hoa lệ rộn rã, sáng ngời trong niềm
hân hoan đón mừng ngày Quốc Khánh đầu tiên, sau gần 100 năm đứng nghiêm chào cờ
Tam Tài và hát quốc ca Tây.
………..
Chị Hai xinh đẹp như Đức Mẹ Maria. Cha đưa mẹ ra bờ sông Bạch Đằng, hoa
đăng ngập tràn xen lẫn những cánh bèo trôi xuôi về biển Đông. Trên đường phố,
từng đoàn xe hoa rực rỡ ánh đèn, chân dung Ngô Tổng Thống với khuôn mặt phúc
hậu, hình như đang mỉm cười. Bỗng mẹ tôi đau bụng, chị Hai
ra đời trong niềm hạnh phúc, yên bình nhất và cũng ngắn ngủi nhất trong đời làm
chồng làm vợ của cha mẹ tôi.
Lúc ra đi, các chú hứa với nội tôi,
sau hai năm sẽ tổng tuyển cử, nước nhà thống nhất các chú lại về. Trong tuyên bố
cuối cùng của hiệp định Genève ngày 21.7.1954, có ghi:
“Hội nghị tuyên bố,
giải pháp cho những vấn đề chính trị ở Việt Nam dựa trên cơ sở tôn trọng độc
lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ sẽ cho phép người dân Việt Nam được hưởng
nền tự do cơ bản thông qua kết quả tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ chức vào
tháng 7/1956”.
Bà nội tôi sụt sùi than thở:
-
Nếu có tổng tuyển cử
việc gì phải đi đâu? Ưng ai
mình bầu, tự do dân chủ… tụi mầy việc gì phải đi, bỏ vợ bỏ con,
bỏ hai thân già trông ngóng héo hon!
Ngày mẹ
sinh chị Ba tôi, gió bấc lùa về từng cơn lạnh buốt thịt da, mưa phùn giăng trắng
xóa. Mùa đông u ám nhưng những cơn giông ùng uỳnh, sấm chớp lóe lên những tia
sáng trắng lạ kỳ trên đỉnh Chư Prong. Chị như con nhái bén, ốm nhách tong teo.
Đã bao lần mẹ tôi chạy đôn chạy đáo tìm thầy tìm thuốc, vất vả vì chị trăm bề.
Nhưng sau này càng lớn, chị không giống ai trong nhà, chỉ biết thụ động sai gì
làm nấy. Hơn mười lăm tuổi, chị bỏ chúng tôi về với ông bà…
Cha mang theo cả gia
đình cùng bà nội tôi ra Đà Nẵng. Trận lụt năm Giáp Thìn (1964), mưa to gió lớn,
nước trên nguồn từ Trà My, Phước Sơn cuồn cuộn đổ về, núi lở từng cụm, ruộng
đồng lấp đầy bùn non, làng mạc bị cuốn trôi. Hằng ngàn con người lẫn trâu bò gà
chó trôi phăng phăng theo dòng nước hung hãn.
Người dân từ các vùng
“xôi đậu” Điện Bàn, Duy Xuyên, Quế Sơn… lần lượt dắt díu nhau chạy về thành
phố, hầu như tất cả gia sản đã bỏ lại sau lưng. Họ được chính quyền bảo trợ,
những căn nhà mái tole vách ván được dựng lên vội vàng trên bãi cát trắng rực
nắng và gió ở ven biển Mỹ Khê, Hòa Khánh mang tên An Cư 1,2,3…
Những người tản cư đã
có cơ may khi Mỹ đổ quân vào Đà Nẵng. các hãng thầu RMK-BRJ tuyển dụng những
người nông dân chạy giặc thất nghiệp, nghèo đói. Đời sống của họ dần hồi lại
khá hơn xưa.
………………
Bà nội ở lại với cô
Dung. Cha lại mang cả gia đình tôi ra Hương Trà, Thừa Thiên. Hương Trà là vùng
đất có lịch sử lâu đời, nơi đây gắn liền với nền Văn hóa Sa Huỳnh. Chiều cuối
năm, tiếng pháo nhà ai rước ông bà nổ dòn bên kia đường. Cha dồn hết cả nhà,
valy áo quần và chút của cải lên xe jeep định chạy về thành phố Huế. Kinh thành
xưa cổ kính mờ mờ lặng im trong hoàng
hôn tím ngắt, tia nắng yếu ớt còn le lói qua rặng lá hướng chùa Thiên Mụ,
chuông ngân thanh thoát mơ hồ trong gió…
Tiếng kêu chới với
của mẹ khiến cha phanh gấp, anh cả tôi đập đầu vào thành xe chảy máu. Mẹ đẻ
rơi.
Cha lái xe băng băng
lên đèo Hải Vân, Hải Vân Quan mù sương. Quay nhìn về vịnh Lăng Cô, những hàng
dừa lắt lay như vẫy tay chào tạm biệt, mây xám đục phiêu bồng lướt qua đầu, rời
xa cố đô về Đà Nẵng cùng nội tôi.
Chị Sáu ra đời đã
tránh cho gia đình tôi kiếp nạn tết Mậu Thân (1968). Ngày đầy tháng, mẹ lấy
mảnh vải trắng chít ngang đầu chị, chị khóc thét lên đưa hai tay lên trời như
ngậm ngùi tiễn đưa những linh hồn đã chết oan khốc, chưa trọn sum vầy trong
buổi đoàn viên, ngày tết Nguyên Đán thiêng liêng… Năm mười bảy tuổi, chị Sáu
xuất gia: Ni cô Diệu Hương.
Sau này, mỗi lần nhà
Nước làm lễ kỷ niệm “chiến thắng Mậu Thân”. Ni cô Diệu Hương đưa tôi lên chùa
cầu siêu và khuyên nhủ:”- Em hãy tránh xa nơi huyễn hoặc ấy, trần gian lắm nỗi gian
tà, không phải nơi chốn em về, hãy theo ta…”.
Tôi lơ đễnh nhìn ra dòng sông lấp lánh chảy
ngang, gợn sóng lăn tăn, ánh lên màu bạc. Một, hai, rồi vô số thân hình tiều tụy
đưa hai cánh tay lên trời, những hồn ma bóng quế nghiêng ngả, thanh âm tiếng
chuông chùa xa vắng như vọng tiếng kinh gọi hồn.
Những khuôn mặt trợn trừng căm phẫn, nghiến răng nguyền rủa: “Thế gian chúng mầy toàn lũ vô ơn, khiến hồn
ta xiêu phách ta lạc, đường về mù mịt, chịu phận âm hồn tha phương, tứ cố vô
thân…”.
Vô số vong hồn không siêu thoát từ lâu có vẻ trầm tĩnh hơn, chỉ nhoẻn
miệng cười. Có lẽ hiểu lẽ đời, trần gian vốn bạc bẽo vô ơn:”Nhất tướng công thành vạn cốt khô”, thân phận quê hương nhược tiểu
đã bao lần khói lửa, bao nhiêu thế hệ đã bỏ mình nơi chân trời góc biển, rừng
sâu núi thẳm hay chìm xuống bùn đen nơi sông rạch U Minh.
Có lẽ trận thư hùng đã gần cạn máu xương. Chính phủ Mỹ chuyển dần trách
nhiệm cho người Việt, tương tự như chiến lược “Da vàng hóa chiến tranh” mà quân
Pháp đã áp dụng ở Đông Dương. Sự tương tàn, nồi da xáo thịt Trịnh – Nguyễn bị
lặp lại nhiều lần trong lịch sử đau thương.
Các anh chị tôi không ai sinh ra phải mổ,
ngoại trừ anh Bảy. Có khi người ta tiếp nhầm máu cho mẹ tôi, nên da ảnh không
giống ai, chỗ đỏ chỗ vàng. Cha nhìn về hướng Trung Phước, Đại Bường (Đại Bình)
– quê ngoại tôi bên bờ hữu ngạn sông Thu Bồn, trời xanh lơ bát ngát, nhưng
không thể về. Những con người hiền lương bị tiêm nhiễm chất độc vô hình, trở
thành ác thú. Họ chân quê chất phác đã ngộ nhận đến đau lòng, cùng hò reo treo
cổ ông ngoại tôi lên nhánh đa bìa làng. Tự dưng đang yên bình thân thiện, trở
thành đối nghịch căm thù.
Ngó lên “Hòn Kẽm Đá Dừng”, những giọt nước
lăn dài theo vách đá dựng đứng không biết tự thuở nào, có lẽ lăn mãi không thôi
như giọt nước mắt nội tôi.
Cha tôi tính cương trực, nhưng không thể
làm gì khác, khi mọi sự đã quá tầm tay
với. Ngày ấy, cả gia đình đông đúc của tôi sống nhờ vào đồng lương và phụ cấp
của cha. Mẹ tôi không có thời gian để nghỉ ngơi, ngoại trừ những lần sinh đẻ.
Cha nói con cái là viên ngọc quý trời cho, anh em chúng tôi cùng dòng máu đỏ.
Cha thuê nhà cho anh chị em tôi tạm “định
cư” để học hành, mẹ bồng anh Bảy theo cha ra tận Cửa Việt, Đông Hà. Vùng giới
tuyến đìu hiu im ắng, hai lá cờ đối nghịch phần phật trong gió, những thanh sắt
đã rỉ của cầu Hiền Lương trong cơn mưa phùn, nhỏ xuống dòng sông Bến Hải đang
lững lờ trôi, những giọt nước sẩm như màu máu.
Mẹ ôm bụng bầu lếch thếch theo đoàn người
chạy giặc, giòng máu lâm bồn ngày sinh anh Tám nhỏ giọt trên đại lộ kinh hoàng…
Gia đình tôi như bầy kiến gặp nước lụt,
trôi dạt theo sấm chớp của chiến tranh. Tiếng đại bác dội về từ vùng ven đô kéo
theo tình trạng hỗn loạn trong thành phố, cũng là ngày khánh kiệt nhất của gia
đình tôi, cả nhà bị lùa ra khỏi khu gia binh. Tôi lại bị sinh ra.
Anh Tám èo uột từ ngày ra đời, đã chết
trên tay chị Ba tôi.
……….
Tôi về thăm mẹ, nhà vắng hoe. Con chó còm già nua nhổm lên sủa nhưng
giọng thiếu hơi, nghe như hụt hẫng. Lâu không về thăm mẹ, nên chó cũng quên
người.
Anh chị Bảy từ ngoài đồng chạy về, mồ hôi muối loang lổ những vệt trắng
mờ mờ sau lưng áo, anh ôm tôi vào lòng:
-
Em
khác quá, ốm nhách!
Da anh bây giờ không còn đỏ đỏ vàng vàng như thời ấu thơ mà đen sạm. Mẹ
đi đâu về, miệng nhai trầu cười móm mém:
-
Tổ
cha mi, răng không đi luôn?
Tôi rưng rưng nhìn mẹ, chị Bảy tò mò nhìn thằng em văn nghệ:
-
Nghe
nói chú làm thơ đăng báo, tui tìm đọc mà
không biết báo gì. Tui
lật qua lật lại không mua, con nhỏ bán báo bực mình chửi miết.
-
Chị
có đọc báo đời không? Em chỉ đăng báo đời!
Chị Bảy tưởng thiệt, le te xuống bếp nấu cơm, còn nói vọng lên:
-
Mai
tui ra sớm, mua về cả nhà đọc thơ chú, rồi cất
để dành.
Mẹ kể chuyện ngày xưa, nhớ đâu nói đó:
-
Ngày
cha mi sắp mất, bầy chèo bẻo rượt đánh
mấy con quạ ngồi chồm
hổm, chờ cha mi tắt thở. Tháng bảy mưa ngâu, quạ trọc đầu vì bắc cầu Ô Thước
qua sông Ngân Hà cho Ngưu Lang - Chức Nữ gặp nhau, vậy mà cha mi đành đoạn bỏ
tau đi, đi miết không về.
Anh Bảy cười hề hề:
-
Mỗi
năm tái hợp một lần, đám giỗ cha về với mẹ.
Chỉ có cầu Hiền Lương
chia cách hơi lâu, mấy chục năm thím hỉ?
Mẹ tôi run run quệt vôi hồng hồng lên lá trầu xanh, nói bâng quơ:
-
Non
sông đã liền một dãy, nhưng dòng sông trong
lòng người ngày càng sâu
hiểm hơn phá Tam Giang!
Chú thím tôi giờ quá ngon, mấy chục năm “thoát ly” không trầy vi tróc
vẩy chút nào. Ngày đoàn viên chỉ mang về cái “xắc-cốt”, nhưng nay giàu có
lên từng ngày.
Thím thật thà, mơ chuyện gì cũng kể cho mẹ tôi nghe:
-
Trong
cơn mơ, dữ thành hiền phải không chị? Em
thấy nhà em đổ sụp, vôi vữa gạch đá đâu
không thấy, chỉ thấy mùi tanh tưởi của máu và thịt chảy thành dòng, cột bê-tông
rệu rã lòi ra những ống xương trắng hếu. Em ám ảnh quá, giờ tay chân cũng còn
run!
-
Của
phi nghĩa để ngoài sân, của phù vân để ngoài
ngõ. Mẹ nhìn lên di ảnh cha tôi, trả lời
thím mà như nhủ lòng mình.
Ngày sinh tiền, cha với chú không gặp nhau thì thôi, chớ gặp nhau là bất
đồng mọi sự. Chú nói cha cố chấp, cha nói chú bị “nhồi sọ”. Bà nội may mà điếc
nặng, mắt đã lòa nên chỉ ngồi bó gối nhìn ra khoảng trời xanh bao la, không ai
biết nội nghĩ gì.
…………
Cũng vì cái tên Đ. Chót mà đời tôi lên bờ xuống ruộng, một lũ ngu si
xuyên tạc và “chụp mũ” lên tên cúng cơm của tôi. Chúng nó nghĩ ra nhiều điều
oái ăm và tàn bạo mà người lương thiện không bao giờ dám nghĩ. Tôi đâu có đặt
tên mình, tôi còn không biết ý nghĩa vậy mà
chúng truy ngược mấy đời nhà tôi, nhảy vào moi gan móc óc cha tôi để tìm
câu trả lời theo lối suy luận giết người của chúng. Cha mẹ sinh con há dễ sinh
lòng, ông nội tôi càng mô phạm bao nhiêu thì tôi lại càng lãng tử bấy nhiêu.
Tôi khoan khoái với tự do tuyệt đối của mình trong ý nghĩ. Dưới bóng mát
của bụi tre sau nhà, tôi ngồi bó gối nhìn ra cánh đồng xa, đàn cò trắng bay về
sà xuống ruộng lúa xanh ngát thì con gái. Chợt ý nghĩ quái dị phớt qua, tôi cố
níu lại: Không lẽ cha mẹ tôi là nhà tiên tri vĩ đại, Đ. Chót là chấm dứt cuộc
đời khi tôi đang còn sống hay theo lối suy diễn ma quái của lũ bợm người, cố
tình gán ghép cho tôi hay còn có ý nghĩa gì khác đã theo cha tôi về bên kia thế
giới?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét