Cô em gái hỏi: “Anh
có về không? Tối nay mẹ với em đi tàu lửa, về ga Trà Kiệu. Mai anh em mình gặp
nhau ở quê nghe anh”.
Nghe sao mà nôn nao.
Thằng Tí gả con gái đầu lòng. Mới ngày nào…
Chuyến bay của hãng
hàng không Jetstar Pacific sẽ cất cánh trong ít phút nữa. Kính mời những hành
khách cuối cùng của chuyến bay BL608 nhanh chóng đến cửa số 6, để làm thủ tục
khởi hành. Xin nhắc lại…
Chuyến bay đã bị delay hơn ba giờ, so với dự định, do thời tiết, Sân bay quốc tế Đà Nẵng về đêm sáng choang. Ông Bình nhìn quanh, không một người quen. Ông cảm thấy cô đơn giữa dòng người đón, đưa trên sân ga, rồi vội vã vẫy taxi…
- Bác về đâu?
Chuyến bay đã bị delay hơn ba giờ, so với dự định, do thời tiết, Sân bay quốc tế Đà Nẵng về đêm sáng choang. Ông Bình nhìn quanh, không một người quen. Ông cảm thấy cô đơn giữa dòng người đón, đưa trên sân ga, rồi vội vã vẫy taxi…
- Bác về đâu?
Ông phân vân, ngập
ngừng:
- Cho bác xuống phố.
Ông hướng dẫn lái xe
chạy vòng vèo. Từ sân bay rẽ sang Nguyễn Hữu Thọ. Căn nhà của ông bên kia, cửa
đã đóng. Ông bảo xe dừng. Cây hoàng lan tỏa vào đêm, hương thơm ngát. Nhưng nay
nhà đã bán đi rồi.
Rẽ trái, đường Trưng Nữ Vương vắng lặng. Đêm đã về khuya, ngang qua chợ Mới, nay đã dời vào sâu trong Tứ Bang. Gần ngã ba Hoàng Diệu, có nhà sách Mai Hoa, tiệm bánh mì thịt nguội Tiến Thành nổi tiếng một thời. Nhà thờ Hòa Thuận kế bên lối vào trường tiểu học Hòa Vang.
Ngã ba thịt chó đây rồi. Ngã ba Phan Chu Trinh - Trưng Nữ Vương.
Rẽ trái, đường Trưng Nữ Vương vắng lặng. Đêm đã về khuya, ngang qua chợ Mới, nay đã dời vào sâu trong Tứ Bang. Gần ngã ba Hoàng Diệu, có nhà sách Mai Hoa, tiệm bánh mì thịt nguội Tiến Thành nổi tiếng một thời. Nhà thờ Hòa Thuận kế bên lối vào trường tiểu học Hòa Vang.
Ngã ba thịt chó đây rồi. Ngã ba Phan Chu Trinh - Trưng Nữ Vương.
Ông Bình nhìn
vào kiệt 1, cây cột điện vẫn còn chỗ cũ, con hẻm cụt mờ mờ ánh đèn vàng hiu
hắt. Những kỷ niệm thời trai trẻ, ùa vào tâm trí ông.
Nơi đây, bà đã tặng
ông tình yêu đầu đời. Nhà bà đối diện nhà ông, những lần đón đưa tan trường.
Những người bà con, hàng xóm thân thương. Ông cảm thấy mình như Từ Thức, xa
cách mấy trăm năm.
Trường Thọ Nhân đã
mang tên khác.Bên kia, chùa Phổ Đà còn vọng tiếng kinh, ru hồn ông bay theo mùi
hoa sứ thoang thoảng trong không gian mơ hồ.
Góc ngã ba Chu Văn An, cà phê Quỳnh Châu không còn dấu tích. Nay là nhà trẻ HH.
Góc ngã ba Chu Văn An, cà phê Quỳnh Châu không còn dấu tích. Nay là nhà trẻ HH.
Anh lái xe im lặng nhìn ông. Lúc
dừng lúc chạy. Đôi mắt ông già đăm chiêu, đôi lúc thở dài. Anh cảm thông cho kẻ
ly hương. Hình như đã lâu lắm rồi, ông trở lại chốn xưa. Nghe ông lẩm bẩm những
cái tên, thật lạ lẫm với anh. Dù anh sinh ra và lớn lên ngay tại thành phố này.
Nỗi u hoài của ông, khiến lòng anh cũng bùi ngùi.
Ngã tư Lê Đình Dương rẽ phải về Cổ Viện Chàm. Ông bấm cửa kính xe để nhìn cho rõ. Ngôi trường Sao Mai, nơi lưu giữ bao nỗi niềm thời thơ dại của ông, đã không còn nữa
Ngã tư Lê Đình Dương rẽ phải về Cổ Viện Chàm. Ông bấm cửa kính xe để nhìn cho rõ. Ngôi trường Sao Mai, nơi lưu giữ bao nỗi niềm thời thơ dại của ông, đã không còn nữa
“Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ
làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng
nghe tiếng ếch bên tai
Giật
mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”
(Sông lấp - Trần Tế Xương)
Ông Bình như nhìn
thấy chiếc bóng mình lẽ loi, trải dài vào tận sân trường. Nơi những chiếc áo
thụng đen của các Cha, các Thầy phất phơ theo bước chân khoan thai vào lớp.
Anh lái xe ho nhẹ. Ông muốn đi dọc sông Hàn. Bên kia sông, những tòa nhà, cao ốc nguy nga, bừng sáng cả một góc trời.
Anh lái xe ho nhẹ. Ông muốn đi dọc sông Hàn. Bên kia sông, những tòa nhà, cao ốc nguy nga, bừng sáng cả một góc trời.
Những chiếc cầu nối đôi bờ, đã thay
da đổi thịt cho Hà Thân, An Hải. Làng chài heo hút, nghèo khó năm xưa.
“Đứng bên ni Hàn, Ngó bên tê Hà Thân,
Nước xanh như tàu lá,
Đứng bên tê Hà Thân, Ngó về Hàn, phố xá
nghênh ngang,
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn,
Đào sông Cầu Nhí, bòn vàng Bồng
Miêu,
Dặn lòng ai dỗ đừng xiêu,
Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau” (ca dao)
Bình minh đã ửng hồng. Biển Thanh
Bình phẳng lì, như tấm lụa xanh thẳm. Bên Tiên Sa thấp thoáng những chiếc tàu,
nhấp nhô trên sóng. Ông chợt nhớ những lần tuần duyên...
Em
- chim non - giữa mùa giông bão
Tan tác trời mây run rẩy bay
Đường xa thấp thoáng dòng ly biệt
Quê hương ngậm ngùi trong mắt cay
Mỹ
Khê này em - tôi yêu em
Cát trắng hồn nhiên sóng dịu hiền
Ta - cố nhân chừ như khách lạ
Một đời phiêu bạt với truân chuyên
Tiên Sa này em - tôi xa em
Tuần dương sóng bạc nhớ môi mềm
Sao Mai lấp lánh về phương nớ
Bắc đẩu tìm đâu trong sương đêm
Ngũ Hành năm ngọn xa vời vợi
"Đệ nhất hùng quan" chẵng lối về
" Nhật mộ hương quan hà xứ thị..."
Chập chùng muôn dặm nẽo sơn khê
Lại một Xuân về - em có hay
Nam Ô này em - rừng dương say
Vi vu thổi mất tình trong mắt
Đà Nẵng này em - mưa bụi bay
…….
Ông Bình không khỏi ngỡ
ngàng khi đứng trên cầu vượt ngã ba Huế, nhìn về thành phố. Thành phố yêu thương của ông, ông không thể
hình dung. Mùa đông miền trung, mưa rả rích suốt ngày đêm, kèm theo những cơn
gió heo may se lạnh, tay ủ trong tà áo trắng bay đã không còn nữa. Đường phố
hối hả với người và xe vun vút. Lòng người cũng đã vô tình hơn, với ngay cả
chính mình.
Chiếc xe mượn được từ
V. đã đưa ông thong thả về quê.
Sau 1954, giáo dân công
giáo từ miền Bắc di cư vào miền Trung. Họ tạm cư ven đường
quốc lộ 1, trong các lán trại từ Ngã Ba Huế đến Vĩnh Điện.
Nhà thờ Phước Tường,
sau này là sân trường Phaolô Lê Bảo Tịnh (hiện nay cũng đang bị mượn để làm
trường cấp 2 Nguyễn Đình Chiểu). Mùa hè năm 1958, Cha Quản xứ Simon Đinh Hưng
Lợi cho xây trường Lê Bảo Tịnh. Năm 1963, Cha Simon xây lại nhà thờ họ Đông
Phước (tức là nhà thờ giáo họ Thánh Tâm, gần sát cầu vượt Hòa Cầm hiện nay).
Nhà thờ họ Thánh Tâm (Đông Phước) nay không còn nữa.
Ngang cầu vượt ngã ba
Hoà Cầm, nhìn về Bà Nà núi Chúa mờ mịt trong mây. Qua cầu Đỏ, Phong Nam - Hoà
Châu ẩn sau màu xanh của rừng tre bạt ngàn. Làng Phong Lệ (Cẩm Lệ), quê hương
ông Ông Ích Khiêm. Ông văn võ song toàn, tính tình bộc trực tuy hơi ngang
bướng.
“Ngươi
(Ông Ích Khiêm) vốn là người học thức mà ra, phải cái tính khí cương cường nóng
nảy, phàm việc không chịu ở sau người…Việc ngươi đánh dẹp bọn phỉ ở tỉnh Bắc,
khí tiết, công lao, trẫm đều rõ hết…Thế mà gần đây được tin là ngươi đến đâu phần
nhiều dung túng cho quân sĩ làm càn. Nếu quả thực như vậy thời dân còn trông
mong gì nữa!...Nếu ngươi còn hối cải để khỏi phụ cái ơn tri ngộ, thì là điều mà
trẫm rất mong mỏi. Bằng cứ còn võ biền, quên lời ân cần dạy bảo, thời trẫm phó
mặc ngươi cho công luân triều đình, dù ngươi có tài cũng không tha luôn mãi được...”(Lời
vua Tự Đức).
Cháu nội ông là Ông Ích Đường, con ông Ông
Ích Kiền (Tán nhì), một nghĩa sĩ trong Nghĩa hội Cần Vương.
Ông Ích Đường bị bắt
và bị chém chết tại chợ Túy Loan (nay thuộc xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang).Tại
nơi hành hình, ông ung dung nói: "Dân nước Nam như cỏ cú, giết Đường
này còn có trăm nghìn Đường khác. Bao giờ hết mía mới hết Đường!". Vì
vậy, người dân đã quyên tiền lập miếu thờ "Cậu Đường" với hai câu đối
điếu đề trước cửa miếu: "Tinh thần
thiên bất tử; Nghĩa khí thế trường sanh" (Tinh thần còn mãi mãi; Nghĩa
khí sống đời đời).
Ngã ba Cẩm Lệ - Chợ
Miếu Bông, điểm giao giữa QL.1A và đường Phạm Hùng
- hướng vào trung tâm thành phố Đà Nẵng, qua cầu Cẩm Lệ, thuộc địa phận xã Hòa Phước - huyện Hòa Vang.
Nhìn về hướng tây, đường vào thôn Quan Châu nép mình dưới bóng tre xanh, nơi
bánh khô mè nổi tiếng của một miền quê, đã vang danh xứ người.
Qua
khỏi cầu Quá Giáng, nhìn về nhà thờ chư phái tộc Quá Giáng, được xây dựng từ
năm 1821. Thờ Quan Thánh và các vị tiền hiền của bốn tộc Đinh, Lê, Trần, Nguyễn,
những người có công theo chúa Nguyễn vào
Nam khai phá, lập nên làng Quá Giáng xưa, bao gồm vùng Quá Giáng, Giáng Nam,
Trà Kiểm, An Lưu và xóm Cồn Mong.
Ông
Bình nhớ thời đi học ở Vĩnh Điện, cuối tuần ông đạp xe về ngoại. Quê ngoại ông ở
bến đò Xu (nay là cầu Hoà Xuân), những chuyến đò ngang qua sông Cẩm Lệ, chở tuổi
thơ ông sớm tối đi về.
Sau
năm 1954, Hòa Vang chia làm hai: quận Hiếu Đức và quận Hòa Vang. Xã Hoà Đa (Hoà
Xuân) trực thuộc quận Hòa Vang. Những
tên làng thân thương: Lỗ Giáng, Trung Lương, Tùng Lâm, Cổ Mân, Liêm Lạc, Cồn Dầu,
Cẩm Chánh… gợi trong ông niềm u hoài một thời xa lắc.
Thời
Pháp thuộc, làng Lỗ Giáng có ông Hồ Đắc Dĩnh làm chánh tổng An Lưu. Năm 1930,
ông Dĩnh đã xin Pháp để huy động dân đắp con đường cái quan từ Quán Đoi (giáp
Hòa Châu) xuống cuối làng Lỗ Giáng. Từ đó, đoạn đường từ cầu Cẩm Lệ xuống Lỗ
Giáng đường rộng, xe ô tô đi được. Tại cầu Cẩm Lệ xuống Cồn Dầu, ngã rẽ về Lỗ
Giáng, Trung Lương qua đò Khuê Đông. Con đường chạy từ quán Đoi xuống Lỗ Giáng,
qua Tùng Lâm, xuống đò Mân Quang, sang Hòa Quý. Từ Miếu Bông, qua Liêm Lạc, xuống
Cổ Mân sang Lỗ Giáng, thẳng xuống Trung Lương, qua đò Xu vào Đà Nẵng.
Quê
ngoại ông có những dòng sông: Từ Tuý Loan, Cẩm Lệ xuống Cồn Nổi, đổ ra sông
Hàn. Nhánh kia từ Vĩnh Điện ra sông Cổ Mân qua Tùng Lâm, Trung Lương rồi hợp
lưu với sông Cẩm Lệ tại Cồn Nổi.
Những
người dân đôn hậu, đã quên mất làng nghề. Những cánh đồng ngút ngàn cây trái,
lúa ngô, vườn rau biến mất. Nhường chỗ
cho khu đô thị sinh thái không có cây
xanh. Những người dân tay lấm chân bùn, nhớ cày nhớ cuốc, ngồi bó rọ buồn hiu
trong những căn hộ tái định cư. Vô công rỗi nghề…
Ông Bình đi trong mộng mị. Nắng trưa gay gắt
hình như cũng dịu đi, theo dòng suy tưởng của ông.
Qua Thanh Quýt, ông nhớ những người bạn
cũ, kẻ còn người mất.
“Thanh
Quýt là một làng cổ ra đời vào thời Huyền Trân công chúa sang làm dâu Chiêm
quốc năm 1306. Từ 1402 khi Hồ Hán Thương cử Phạm Nhữ Dực vào làm Chánh Đô án
phủ sứ phủ Thăng Hoa khai khẩn vùng đất mới. Thủy tổ của 7 tộc họ lớn của làng:
Nguyễn Hữu, Lê Tự, Trương Công, Nguyễn Văn, Nguyễn Bá… đều là các quan đại thần
theo Lê Thánh Tông trong cuộc bình Chiêm năm 1471, sau đó ở lại trấn nhậm vùng
đất mới, lập nên làng Thanh Quýt.
Dương
Văn An trong “Ô châu cận lục” đã cho biết Thanh Quýt là một trong 66 làng của
huyện Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong với tên gọi là Kim Quất. Đến Lê Quý Đôn
trong “Phủ biên tạp lục” viết năm 1776 thì Thanh Quýt có tên là Thanh Quất, một
trong 18 làng thuộc huyện Lễ Dương, phủ Thăng Hoa”…
(Nguồn: http://baoquangnam.vn/van-hoa-van-nghe/)
– Gặp anh hùng xin hỏi anh hùng
Cầu chi đi mười hai tháng phân cho
cùng thiếp nghe?
– Kim Liên, Thủy Tú, Vĩnh Điện cho
chí Câu Lâu
Quảng Nam ta có mấy cái cầu dài thay!
Chỉ đi chưa tới nửa ngày
Lẽ mô có lẽ đi rày một năm?
Bạn hỏi ta, nghĩ lại cũng nhằm
Cầu chi đi mười hai tháng? Có cầu Giáp
Năm đó bạn tề!
(Ca dao)
Ông Bình dừng chân, nhìn về cánh đồng làng Phong
Ngũ, những gốc rạ sau mùa gặt vàng hoe, xơ xác. Cổng đình làng Phong Lục rêu
phong. Những người bạn họ Đỗ còn đâu đó. Đỗ Diện còm cỏi trên chiếc xe đạp một
thời trơ khung, chân đất. Lăn theo dòng đời, lưu lạc…
Đến làng Phong
Nhị, nhớ ngôi nhà chênh vênh trên gò đất, giữa đồng của Nguyễn Chung (nhà thơ
Nguyễn Hàn Chung). Phong Nhứt của Thân Tám (Thân Hùng – đã mất). Làng Đông Hồ
với Dương Thanh Thu (Thu Dèo), khốn khó ngồi vá xe bên đường, mịt mù khói bụi. Cầu
Giáp Ba rẽ trái đến nhà Nguyễn Đình Ký, nhà thơ lặng thầm bên dòng sông lấp,
nay đã nặng tai. Làng Ngọc Tam, Ngọc Tứ giáp Hạ Nông, quê ông…
Ông Bình lặng
người nhìn dòng sông Vĩnh Điện lững lờ trôi, bóng mây chìm nổi, ẩn hiện bóng
dáng tuổi thơ ông, bạn bè ông dưới mái trường trung học Nguyễn Duy Hiệu ngày
nào.
Vĩnh Điện, chính nơi này. Nhiều nhà thơ, nhạc
sĩ nổi tiếng một thời như nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, La Hối. Các nhà thơ Nguyễn Nho Sa Mạc, Hoàng Lộc,
Phan Duy Nhân, Đynh Trầm Ca, Phạm Ngọc Lư, Mang Viên Long, Vũ Hữu Định, Đoàn
Huy Giao, Nguyễn Hàn Chung… đã từng đến và được sinh ra tại Vĩnh Điện, điểm
dừng chân giữa đường cũng là nơi cư ngụ, dạy học, sáng tác của hàng chục người cầm bút
lúc mười tám, đôi mươi. Trên các tạp chí văn nghệ nổi tiếng của Sài gòn như
Văn, Sáng Tạo, Văn học, Đối Diện, Khởi Hành, Ý Thức… đều có đăng sáng tác.
Điện
Bàn có tháp Bằng An, tháp Chăm duy nhất còn lại, hình bát giác, được xem như Linga
khổng lồ. Bãi biển Hà My - Điện Dương, Điện Phương nổi tiếng các làng nghề truyền
thống như đúc đồng, gốm, gỗ mỹ nghệ, dệt chiếu, mỳ Quảng Phú Chiêm, bê thui Cầu
Mống, khu du lịch Bồ Bồ....
Giữa hai sông Vĩnh Điện
và Thu Bồn, từng là thủ phủ của Quảng Nam xưa. Dinh trấn Thanh Chiêm thời chúa
Nguyễn (1558 - 1775) và thành tỉnh Quảng Nam thời nhà Nguyễn (1802 - 1945),
thương cảng Hội An sầm uất và những làng nghề nổi tiếng như Phước Kiều, Kim
Bồng…
Thôn Bồng Lai, làng La
Qua (Điện Minh, Điện Bàn), nơi có dòng họ Nguyễn Nho tài hoa: Nguyễn Nho Sa Mạc (Nguyễn Nho Bửu
1944-1964), Nguyễn Nho Nhượn, Nguyễn Nho Khiêm…
Những khu vườn mai dưới nắng xuân vàng rực. Cô bé Nguyễn Thị D. tung
tăng sớm tối đi về. Ông Bình nhớ thời ngớ ngẫn, đạp xe băng băng đến con đường
nhỏ, có hàng cau cao vút, ngôi nhà ngói cổ kính thâm nâu. Lặng lẽ nhìn, rồi
lặng lẽ quay về.
“Rằng xa, ngoài ngõ cũng xa
Rằng gần Vĩnh Điện, La Qua cũng gần”(ca dao)
Ông
Bình thẩn thờ quay ngược xe. Qua khỏi cầu Vĩnh Điện, rẽ trái về quê ông. Đối
diện cổng trường Nguyễn Duy Hiệu, ngày xưa là cánh đồng Điện An, ruộng lúa xanh
ngát, nay đã thành chợ mới Vĩnh Điện. Lồng chợ hai tầng nguy nga, đầy ắp hàng
hoá. Những con đường nhựa thẳng tắp như phố thị. Nhà của chị em Trần Thị… chỉ
còn lưu dấu mái tole cũ kỹ, bị che khuất bỡi những nhà cao tầng, mất dấu chân
người khi đô thị hoá.
Đầu
đường ĐT609, hướng về Ái Nghĩa. Quán cơm, mì Quảng cô Tám ngày xưa, nay đã
chuyển giao cho con gái út, bán bún bò Huế. Học xa nhà, ông Bình đuợc mẹ gói
cơm lá chuối với cá rô đồng kho mặn hoặc muối đậu, ăn trưa. Thỉnh thoảng ông
được cùng cậu Lê Văn Đa – Giám thị trường Nguyễn Duy Hiệu, thầy Trần Văn Tường,
thầy Vương Thanh… dùng cơm quán cô Tám.
Ông
Bình dừng lại - Bến Đá. Ngày ấy, những chiếc ghe thương hồ ngược xuôi, mỏi chân
neo đậu nơi này. Tan học, ông cùng Nguyễn Văn Diên (đã mất), Lê Viết Nem
(Hoàng), Phạm Phú Cừ, Khúc Thừa Thế… cởi truồng tắm sông, ngụp lặn có lần suýt
chết dưới đáy ghe. Nhà Phan Xuân Dũng đây rồi. Chỉ còn “Lối xưa
xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” (Thăng Long thành hoài cổ
- Bà Huyện Thanh Quan).
Ngang Tháp cổ Bằng An. Tháp có hình Linga
khổng lồ tượng trưng cho thần Shiva – một trong những hình ảnh thiêng liêng nhất
của mặt trời, theo quan niệm của người Chăm-pa. Trước cửa có tượng hai con thú,
gọi là Gajasimha, hình nửa như sư tử nhưng lại có vòi ngắn quay lên trên, mỗi
con đều có cái diềm đeo cổ. Như các tháp Chăm khác, tháp Bằng An cũng quay cửa
về hướng Đông để đón ánh mặt trời.
Tháp trầm mặc u buồn. Nhìn khung cảnh nhếch
nhác tưởng chừng như hoang phế, ông chạnh lòng nhớ về Công chúa Huyền Trân…
“Tiếc thay cây quế giữa rừng/ Để cho thằng Mán
thằng Mường nó leo” (ca dao)
“Năm 1301,Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông được Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân mời vào thăm và
tiếp đãi nồng hậu. Khi ra về, Thái thượng hoàng có hứa gả con gái cho Chế Mân,
mặc dù khi đó Chế Mân đã có chính thất là Vương hậu Tapasi, người Java (Indonesia ngày nay). Sau đó nhiều lần, Chế Mân
cử sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng nhiều quan lại nhà Trần phản đối, chỉ có
Văn Túc vương Trần Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành.
Năm Bính Ngọ, Hưng Long năm thứ 14
(1306), tháng 6 Chúa Chiêm Thành
là Chế Mân dâng
hai châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) làm hồi môn, vua Trần Anh Tông khi đó mới đồng ý gả Công chúa
Huyền Trân cho Chế Mân. Công chúa khi về Chiêm Thành, được phong làm Vương hậu thứ
2 với phong hiệu là Paramecvari.
Tháng 5, năm Đinh Mùi (1307), quốc vương Chế Mân băng hà. Thế tử Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng và báo tang.
Theo Đại Việt sử ký chép
lại, Trần Anh Tông nghe rằng: Theo tục
nước Chiêm, Quốc vương chết thì Vương hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Trần Anh Tông liền cử Hành khiển Trần Khắc Chung sang viếng tang và tìm cách cứu công chúa. Trần
Khắc Chung cứu được công chúa và đưa xuống thuyền. Cuộc hải hành kéo dài tới
một năm và theo "Đại Việt sử ký toàn thư" thì Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa”.
Sau khi công chúa Huyền Trân trở về Thăng Long, theo di mệnh của
Thái Thượng hoàng, bà xuất gia ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh). Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng.
Cuối năm Tân Hợi (1311), Hương Tràng cùng một thị nữ đã quy y đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi
Hổ để tu hành. Sau đó, am tranh trở thành điện Phật, tức chùa Nôm Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự.
Bà mất ngày mồng 9 tháng Giêng năm Canh Thìn (1340). Dân chúng quanh vùng thương tiếc và tôn bà là Thần
Mẫu và lập đền thờ cạnh chùa Nộm Sơn. Nhớ ngày công chúa mất, hàng năm
trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong ở Huế.
Các triều đại sau đều sắc phong công chúa
Huyền Trân là thần hộ quốc. Nhà Nguyễn ban chiếu ghi
nhận công lao của công chúa Huyền Trân "trong việc giữ nước giúp dân, có
nhiều linh ứng", nâng bậc tăng là "Trai
Tĩnh Trung Đẳng Thần".
(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/)
Ông
Bình nhìn về phía đối diện tháp Bằng An, ngôi trường tiểu học Vĩnh Hoà (Điện
An) năm xưa, nay là trường Phan Thành Tài bề thế.
Ông
Bình sực nhớ chuyện ông làm chủ hôn, đám cưới chú D. và cô Tr., hình như năm
1979. Ngày ấy, ông Bình xin được rẻo đất đầu làng, gần ngã ba con đường cái cũ.
Ông dựng tạm căn nhà …
Đêm về, bên ngọn đèn dầu, lật ngửa chiếc
xe đạp, nghiên cứu, vẽ cách đan tăm, tháo ra, lắp vào đến sáng chưa xong. Tìm hiểu để làm thêm
nghề sửa, vá xe đạp.Tiệm
sửa xe dần hồi cũng có khách. Ông Bình cùng chú D. bận rộn tối ngày.
Trong một lần chú D. chở khung xe đạp đi
sơn ở Vĩnh Điện gặp cô Tr. Cô Tr. gái thành phố, theo cha mẹ về quê. Cô dạy tại
trường tiểu học Điện An (nay là trường Phan Thành Tài), không biết chú D. tán tỉnh
thế nào, hôm sau cô đạp xe mini lên nhờ chú D. sửa giúp. Họ đã bén duyên nhau,
nhưng mẹ chú D. không tán thành!
Họ tự tổ chức thành hôn, trên sân trường
tiểu học này. Mùa hè vắng hoe, bên nhà gái không người thân. Những thầy cô giáo
đồng nghiệp phụ giúp, trang điểm cô dâu bằng màu son hoa phượng. Thầy hiệu trưởng
Th. tuyên bố lý do, ánh mắt yêu thương nồng cháy của tân lang và tân giai nhân
lấp lánh, hạnh phúc và làm dịu mát những tia nắng của buổi trưa hè.
Ông Bình đại diện nhà trai, chuẩn bị đáp từ.
Bỗng mẹ chú D. xuất hiện bất ngờ, chiếc gậy trong tay bà kéo phăng tấm biển chữ
“Tân hôn”, đêm qua ông Bình cắt vội. Thế là tan. Ông Bình ôm bà mẹ. Chú D.
không thấy đâu. Thầy cô giáo hoảng hốt khi phát hiện chú D. định treo cổ trong
phòng học… Nhưng bây giờ, cô chú đã vượt qua bao nhiêu phong ba bão táp, con
cháu đề huề.
Vòng bánh xe quay, đưa ông Bình đi theo
hoài niệm. Đây rồi cống Cửu Duật. Khi nước băng đồng trong mùa mưa lũ. “Ông tha mà bà chẳng tha/ làm cho cái lụt
hăm ba tháng mười”. Là những ngày nghỉ học. Bàu sen hương thơm ngát, chạy
dài về phía xứ Miên La, Đồng Thộn thuộc làng Bất Nhị, ra sông Thu Bồn.
“Sông Thu Bồn xuôi về Cửa Đại/ lạch Bình Long chảy mãi ra
Hàn…”. Từ đây về quê ông, con đường quốc lộ cong cong
hình chữ S. Ngõ Nghè Mai, Chánh Chước vào làng Hạ Nông…
Dòng ký ức ùa về trong ông. Ông Bình học được
nghề gò từ trại cải tạo. Công xá từ những chiếc thùng tưới, thùng gánh nước,
thay đáy thùng… Mỗi chiều về, cũng mua cho mẹ chút trầu cau, mua cho con chút
đường, thay sữa!
THÂN PHẬN
Mẹ tần tảo nuôi con
Đêm mưa và ngày nắng
Cằn cỗi cuộc đời nước mặn đồng chua
Quê ta nghèo mùa được mùa thua
Theo gió bão sớm dưa chiều muối
Tuổi tám mươi Mẹ chưa một lần tiếc nuối
Nuôi con khôn lớn những ngày
Gắng học nên người
Tạo dựng ngày mai
Thời của Mẹ qua rồi thời nô lệ
Đời ta nghèo, nhà ta bao thế hệ
Nước ta nghèo cần chất xám nơi con
Đêm mưa và ngày nắng
Cằn cỗi cuộc đời nước mặn đồng chua
Quê ta nghèo mùa được mùa thua
Theo gió bão sớm dưa chiều muối
Tuổi tám mươi Mẹ chưa một lần tiếc nuối
Nuôi con khôn lớn những ngày
Gắng học nên người
Tạo dựng ngày mai
Thời của Mẹ qua rồi thời nô lệ
Đời ta nghèo, nhà ta bao thế hệ
Nước ta nghèo cần chất xám nơi con
Nhưng Mẹ ơi, con chờ đợi mỗi mòn
Xin làm những gì hợp với nghề con
Người ta bảo anh nên làm ruộng rẫy
Và con rất tự hào hăng say cày cấy
Cử nhân như con biết mấy vạn người
Đạp xe thồ, bốc vác chợ trời
Hay tay lấm chân bùn như con của Mẹ
Nên đàn em con
chẳng học hành ra lẽ
Vì tương lai không định hướng nên người
…….
Sau năm 1975, cha mẹ quy cố hương. Cha mẹ
dường như đã già hơn mười tuổi. Cái nôi thời thơ ấu, gần như hoang phế bỡi chiến
tranh, gạch vỡ vây quanh làm tường, mái tole cũ kỹ, tạm bợ. Cha ốm yếu, mẹ và
em không biết làm ruộng, hai con còn nhỏ…
Ông Bình đi trả công thay mẹ. Mẹ - con gái
thành phố - theo cha về làm ruộng, tất bật với heo gà lam lũ. Đàn ông như ông
quá tệ, xóc đầu này, tuột đầu kia, không gánh nổi hai bó lúa, lưng cong như con
tôm, quỵ xuống bên bờ ruộng, thôi đành vác từng bó lên vai… Chú sáu B. nói
thôi, không gánh nữa, gom lúa đã gặt, chú gánh giúp. Đứng trên mảnh ruộng này,
là rộc Ngang, đám Lớn, bàu Lát… cha đã dành dụm, không dám ăn tiêu để có nó.
Bây giờ của HTX, ông Bình đi làm thuê.
Ngày
xưa đi học, ông Bình băng vườn Chùa, băng rộc khi mùa tháng tám đã thu hoạch,
trơ đất bệ – thuộc xóm Nga Tiền. Theo hướng tây bắc gần cây số, Miếu Bà linh
thiêng nép mình dưới cây xoài cao vòi vọi. Dọc theo bờ thuỷ lợi đến trường học
Mới (Hạ Nông Trung bây giờ), nơi đây có trạm bơm nước, chú B. ba-te vác cuốc
theo dòng, khơi chảy vào từng đám ruộng. Những con dế than, đế cơm ngơ ngác,
xoè đôi cánh có hai viền trắng tròn, bay tứ tung. Đàn sáo sậu, chèo bẻo tha hồ
chao liệng, săn mồi.
Ôm cặp qua chiếc cầu tre đong đưa, lạch Bình
Long: Hạ Nông trên (Hạ Nông Tây), qua cầu ông Trọng đến trường. Trưa tan học,
lũ trẻ chân không dép chạy như ma đuổi. Những chuyện kể của người lớn ám ảnh:
ma dơi, ma dú… Dọc bờ lạch, tre gai chằng chịt, cọ xát vọng tiếng ỉ ôi, như ma
Hời kêu than vong quốc. Cũng có khi ông Bình rẽ con đường nhỏ, bên nhà ông Đốc
Thuyên (con trai duy nhất của chí sĩ Trần Quý Cáp), qua rộc ngang, nghĩa trang
Gò Bướm, về nhà.
Những địa danh La
Hòa - có nhà thờ Công giáo La Nan, Bất
Nhị, Hạ Nông, Nông Sơn, Miên La, Đồng Vòng, Thai La, Nam Hoà… Bãi biền dâu xanh
ngát:
“Một nong tằm bằng năm nong kén
Một nong kén bằng chín nén tơ
Em thương anh tháng đợi năm chờ
Lòng nào dứt mối lìa tơ cho đành” (ca
dao)
……….
Cha cho mấy cây cột “mùn”, ông Bình
cùng anh Ngộ kéo xe “bò” ra Hòa Châu. Ông bà ngoại cho tre, bà ngoại làm gà ăn cơm tối, anh em đẩy xe
về trong đêm.
Chú Liếng (đã mất) giúp làm nhà, cha
dạy đánh tranh rạ, trộn đất sét với rơm làm vách.
Nhìn con còi cọc, ông Bình ăn trộm con gà của
cha. Đêm tối bắt nhầm con gà mái đẻ, cha chửi quá
trời! Không có gì mời “quan viên”, lại nghe nói xương chó hầm đậu xanh
trị bệnh ghẽ lở trẻ con, ông lừa con chó của cha chạy xuống mương thủy lợi, trấn
nước, đãi khách !
HTX cần người đo đạc. Ông Bình cùng anh
Khóa (đã mất), Nguyễn Đức Thu lập nên “bản đồ giải thửa” đầu tiên của HTX Điện Phước. Ngày đi ngắm, cầm “mia”,
đêm về dạy bổ túc văn hóa. Ông Bình dạy các môn tự nhiên, Trần Hoài Thanh dạy văn, Nguyễn Đức Thu dạy “toàn
bộ” cấp 1, Thầy Điểu quản lý, Tào Bạn – Bí
thư xã đoàn – hiệu trưởng. Mỗi
mùa được chia 60 kí lúa “điều hòa”.
Dượng Tường (đã mất 08.10.2017) cho chiếc xe Lambretta, sơn sửa lại thật đẹp. Có
người gạ đổi xe honda 67, ông Bình tu bổ ngon lành, nhưng không có xăng để chạy.
Để bán có giá, ông tháo tung theo sách dạy:”mở
trước, lắp sau”, chùi rữa cẩn thận, đến piston, xy-lanh cạo trắng tinh, còn
dùng giấy nhám đánh bóng loáng! đến khi ráp vào không biết cái nào trước, cái
nào sau. Nửa đêm, chạy vào nhờ anh Lê
Cao Diện (Thư ký UB xã Điện Phước –
GĐ/BHXH Điện Bàn sau này), lắp ráp.
Gần sáng, đổ xăng, máy nổ rầm trời, tệ hơn
lúc chưa sửa, do lòng xy-lanh không còn kín hơi. Nhờ vậy ông Bình biết sửa xe
máy. Bán cho anh H. – trại gỗ Hiệp Thành.
Ông mua lại xe Suzuki, không xăng, đắp chiếu. Trần Hoài Thanh mượn đi Đà Nẵng,
lúc về nổ banh lốp. Không có lốp để thay, ông đổi ngang chiếc xe đạp duya-ra của
Nguyễn Xuân Thống (bạn học Nguyễn Duy Hiệu
– Nay ở Bình Mỹ, Củ Chi, đã mất). Bị trộm lấy mất.
Điện Phước, quê hương tôi ngày ấy. Tình
làng nghĩa xóm tràn đầy. Những ngày thơ ấu thanh bình, ông Bình không ngờ thế hệ các ông, đã được những bàn
tay ma quái, lông lá chuẩn bị đưa vào lò than chiến tranh nghiệt ngã. Mộ phần
dành cho tuổi đôi mươi đầy hoa mộng, đã được lập trình, từ những năm đầu thập
niên 60.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét