Thứ Sáu, 5 tháng 1, 2018

NỖI NIỀM

    Cô em gái hỏi: “Anh có về không? Tối nay mẹ với em đi tàu lửa, về ga Trà Kiệu. Mai anh em mình gặp nhau ở quê nghe anh”.
     Nghe sao mà nôn nao. Thằng Tí gả con gái đầu lòng. Mới ngày nào…
     Chuyến bay của hãng hàng không Jetstar Pacific sẽ cất cánh trong ít phút nữa. Kính mời những hành khách cuối cùng của chuyến bay BL608 nhanh chóng đến cửa số 6, để làm thủ tục khởi hành. Xin nhắc lại…
Chuyến bay đã bị delay hơn ba giờ, so với dự định, do thời tiết, Sân bay quốc tế Đà Nẵng về đêm sáng choang. Ông Bình nhìn quanh, không một người quen. Ông cảm thấy cô đơn giữa dòng người đón, đưa trên sân ga, rồi vội vã vẫy taxi…
- Bác về đâu? 
Ông phân vân, ngập ngừng:
- Cho bác xuống phố.
     Ông hướng dẫn lái xe chạy vòng vèo. Từ sân bay rẽ sang Nguyễn Hữu Thọ. Căn nhà của ông bên kia, cửa đã đóng. Ông bảo xe dừng. Cây hoàng lan tỏa vào đêm, hương thơm ngát. Nhưng nay nhà đã bán đi rồi.
Rẽ trái, đường Trưng Nữ Vương vắng lặng. Đêm đã về khuya, ngang qua chợ Mới, nay đã dời vào sâu trong Tứ Bang. Gần ngã ba Hoàng Diệu, có nhà sách Mai Hoa, tiệm bánh mì thịt nguội Tiến Thành nổi tiếng một thời. Nhà thờ Hòa Thuận kế bên lối vào trường tiểu học Hòa Vang.
Ngã ba thịt chó đây rồi. Ngã ba Phan Chu Trinh - Trưng Nữ Vương.
     Ông Bình nhìn vào kiệt 1, cây cột điện vẫn còn chỗ cũ, con hẻm cụt mờ mờ ánh đèn vàng hiu hắt. Những kỷ niệm thời trai trẻ, ùa vào tâm trí ông. 
     Nơi đây, bà đã tặng ông tình yêu đầu đời. Nhà bà đối diện nhà ông, những lần đón đưa tan trường. Những người bà con, hàng xóm thân thương. Ông cảm thấy mình như Từ Thức, xa cách mấy trăm năm.
     Trường Thọ Nhân đã mang tên khác.Bên kia, chùa Phổ Đà còn vọng tiếng kinh, ru hồn ông bay theo mùi hoa sứ thoang thoảng trong không gian mơ hồ.
Góc ngã ba Chu Văn An, cà phê Quỳnh Châu không còn dấu tích. Nay là nhà trẻ HH.
     Anh lái xe im lặng nhìn ông. Lúc dừng lúc chạy. Đôi mắt ông già đăm chiêu, đôi lúc thở dài. Anh cảm thông cho kẻ ly hương. Hình như đã lâu lắm rồi, ông trở lại chốn xưa. Nghe ông lẩm bẩm những cái tên, thật lạ lẫm với anh. Dù anh sinh ra và lớn lên ngay tại thành phố này. Nỗi u hoài của ông, khiến lòng anh cũng bùi ngùi.
Ngã tư Lê Đình Dương rẽ phải về Cổ Viện Chàm. Ông bấm cửa kính xe để nhìn cho rõ. Ngôi trường Sao Mai, nơi lưu giữ bao nỗi niềm thời thơ dại của ông, đã không còn nữa
“Sông kia rày đã nên đồng 
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
 Vẳng nghe tiếng ếch bên tai 
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”
(Sông lấp - Trần Tế Xương)

     Bánh bèo Quan Thuế bên kia, Dòng sông Hàn đục ngầu lững lờ trôi. Cầu Rồng soi bóng lung linh, dưới ánh đèn muôn màu rực rỡ.
     Ông Bình như nhìn thấy chiếc bóng mình lẽ loi, trải dài vào tận sân trường. Nơi những chiếc áo thụng đen của các Cha, các Thầy phất phơ theo bước chân khoan thai vào lớp.
     Anh lái xe ho nhẹ. Ông muốn đi dọc sông Hàn. Bên kia sông, những tòa nhà, cao ốc nguy nga, bừng sáng cả một góc trời.
     Những chiếc cầu nối đôi bờ, đã thay da đổi thịt cho Hà Thân, An Hải. Làng chài heo hút, nghèo khó năm xưa.
“Đứng bên ni Hàn, Ngó bên tê Hà Thân, Nước xanh như tàu lá,
Đứng bên tê Hà Thân, Ngó về Hàn, phố xá nghênh ngang, 
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn, 
Đào sông Cầu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu, 
Dặn lòng ai dỗ đừng xiêu, 
Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau” (ca dao)
     Bình minh đã ửng hồng. Biển Thanh Bình phẳng lì, như tấm lụa xanh thẳm. Bên Tiên Sa thấp thoáng những chiếc tàu, nhấp nhô trên sóng. Ông chợt nhớ những lần tuần duyên...
Em -  chim non - giữa mùa giông bão
Tan tác trời mây run rẩy bay
Đường xa thấp thoáng dòng ly biệt
Quê hương ngậm ngùi trong mắt cay

Mỹ Khê này em - tôi yêu em
Cát trắng hồn nhiên sóng dịu hiền
Ta - cố nhân chừ như khách lạ
Một đời phiêu bạt với truân chuyên


Tiên Sa này em - tôi xa em

Tuần dương sóng bạc nhớ môi mềm
Sao Mai lấp lánh về phương nớ
Bắc đẩu tìm đâu trong sương đêm


Ngũ Hành năm ngọn xa vời vợi
"Đệ nhất hùng quan" chẵng lối về  
" Nhật mộ hương quan hà xứ thị..."  
Chập chùng muôn dặm nẽo sơn khê


Lại một Xuân về -  em có hay
Nam Ô này em - rừng dương say
Vi vu thổi mất tình trong mắt
Đà Nẵng  này em - mưa bụi bay
…….

     Ông Bình không khỏi ngỡ ngàng khi đứng trên cầu vượt ngã ba Huế, nhìn về thành phố.  Thành phố yêu thương của ông, ông không thể hình dung. Mùa đông miền trung, mưa rả rích suốt ngày đêm, kèm theo những cơn gió heo may se lạnh, tay ủ trong tà áo trắng bay đã không còn nữa. Đường phố hối hả với người và xe vun vút. Lòng người cũng đã vô tình hơn, với ngay cả chính mình.
     Chiếc xe mượn được từ V. đã đưa ông thong thả về quê.
Sau 1954, giáo dân công giáo từ miền Bắc di cư vào miền Trung. Họ tạm cư ven đường quốc lộ 1, trong các lán trại từ Ngã Ba Huế đến Vĩnh Điện.
     Nhà thờ Phước Tường, sau này là sân trường Phaolô Lê Bảo Tịnh (hiện nay cũng đang bị mượn để làm trường cấp 2 Nguyễn Đình Chiểu). Mùa hè năm 1958, Cha Quản xứ Simon Đinh Hưng Lợi cho xây trường Lê Bảo Tịnh. Năm 1963, Cha Simon xây lại nhà thờ họ Đông Phước (tức là nhà thờ giáo họ Thánh Tâm, gần sát cầu vượt Hòa Cầm hiện nay). Nhà thờ họ Thánh Tâm (Đông Phước) nay không còn nữa.
     Ngang cầu vượt ngã ba Hoà Cầm, nhìn về Bà Nà núi Chúa mờ mịt trong mây. Qua cầu Đỏ, Phong Nam - Hoà Châu ẩn sau màu xanh của rừng tre bạt ngàn. Làng Phong Lệ (Cẩm Lệ), quê hương ông Ông Ích Khiêm. Ông văn võ song toàn, tính tình bộc trực tuy hơi ngang bướng.
“Ngươi (Ông Ích Khiêm) vốn là người học thức mà ra, phải cái tính khí cương cường nóng nảy, phàm việc không chịu ở sau người…Việc ngươi đánh dẹp bọn phỉ ở tỉnh Bắc, khí tiết, công lao, trẫm đều rõ hết…Thế mà gần đây được tin là ngươi đến đâu phần nhiều dung túng cho quân sĩ làm càn. Nếu quả thực như vậy thời dân còn trông mong gì nữa!...Nếu ngươi còn hối cải để khỏi phụ cái ơn tri ngộ, thì là điều mà trẫm rất mong mỏi. Bằng cứ còn võ biền, quên lời ân cần dạy bảo, thời trẫm phó mặc ngươi cho công luân triều đình, dù ngươi có tài cũng không tha luôn mãi được...”(Lời vua Tự Đức).
     Cháu nội ông là Ông Ích Đường, con ông Ông Ích Kiền (Tán nhì), một nghĩa sĩ trong Nghĩa hội Cần Vương.
     Ông Ích Đường bị bắt và bị chém chết tại chợ Túy Loan (nay thuộc xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang).Tại nơi hành hình, ông ung dung nói: "Dân nước Nam như cỏ cú, giết Đường này còn có trăm nghìn Đường khác. Bao giờ hết mía mới hết Đường!". Vì vậy, người dân đã quyên tiền lập miếu thờ "Cậu Đường" với hai câu đối điếu đề trước cửa miếu: "Tinh thần thiên bất tử; Nghĩa khí thế trường sanh" (Tinh thần còn mãi mãi; Nghĩa khí sống đời đời).

     Ngã ba Cẩm Lệ - Chợ Miếu Bông, điểm giao giữa QL.1A và đường Phạm Hùng - hướng vào trung tâm thành phố Đà Nẵng, qua cầu Cẩm Lệ,  thuộc địa phận xã Hòa Phước - huyện Hòa Vang. Nhìn về hướng tây, đường vào thôn Quan Châu nép mình dưới bóng tre xanh, nơi bánh khô mè nổi tiếng của một miền quê, đã vang danh xứ người.
     Qua khỏi cầu Quá Giáng, nhìn về nhà thờ chư phái tộc Quá Giáng, được xây dựng từ năm 1821. Thờ Quan Thánh và các vị tiền hiền của bốn tộc Đinh, Lê, Trần, Nguyễn,  những người có công theo chúa Nguyễn vào Nam khai phá, lập nên làng Quá Giáng xưa, bao gồm vùng Quá Giáng, Giáng Nam, Trà Kiểm, An Lưu và xóm Cồn Mong.
     Ông Bình nhớ thời đi học ở Vĩnh Điện, cuối tuần ông đạp xe về ngoại. Quê ngoại ông ở bến đò Xu (nay là cầu Hoà Xuân), những chuyến đò ngang qua sông Cẩm Lệ, chở tuổi thơ ông sớm tối đi về.
     Sau năm 1954, Hòa Vang chia làm hai: quận Hiếu Đức và quận Hòa Vang. Xã Hoà Đa (Hoà Xuân) trực thuộc quận Hòa Vang.  Những tên làng thân thương: Lỗ Giáng, Trung Lương, Tùng Lâm, Cổ Mân, Liêm Lạc, Cồn Dầu, Cẩm Chánh… gợi trong ông niềm u hoài một thời xa lắc.
    Thời Pháp thuộc, làng Lỗ Giáng có ông Hồ Đắc Dĩnh làm chánh tổng An Lưu. Năm 1930, ông Dĩnh đã xin Pháp để huy động dân đắp con đường cái quan từ Quán Đoi (giáp Hòa Châu) xuống cuối làng Lỗ Giáng. Từ đó, đoạn đường từ cầu Cẩm Lệ xuống Lỗ Giáng đường rộng, xe ô tô đi được. Tại cầu Cẩm Lệ xuống Cồn Dầu, ngã rẽ về Lỗ Giáng, Trung Lương qua đò Khuê Đông. Con đường chạy từ quán Đoi xuống Lỗ Giáng, qua Tùng Lâm, xuống đò Mân Quang, sang Hòa Quý. Từ Miếu Bông, qua Liêm Lạc, xuống Cổ Mân sang Lỗ Giáng, thẳng xuống Trung Lương, qua đò Xu vào Đà Nẵng.
     Quê ngoại ông có những dòng sông: Từ Tuý Loan, Cẩm Lệ xuống Cồn Nổi, đổ ra sông Hàn. Nhánh kia từ Vĩnh Điện ra sông Cổ Mân qua Tùng Lâm, Trung Lương rồi hợp lưu với sông Cẩm Lệ tại Cồn Nổi.
     Những người dân đôn hậu, đã quên mất làng nghề. Những cánh đồng ngút ngàn cây trái, lúa ngô, vườn rau biến mất.  Nhường chỗ cho khu đô thị sinh thái không có  cây xanh. Những người dân tay lấm chân bùn, nhớ cày nhớ cuốc, ngồi bó rọ buồn hiu trong những căn hộ tái định cư. Vô công rỗi nghề…
     Ông Bình đi trong mộng mị. Nắng trưa gay gắt hình như cũng dịu đi, theo dòng suy tưởng của ông.
     Qua Thanh Quýt, ông nhớ những người bạn cũ, kẻ còn người mất.
“Thanh Quýt là một làng cổ ra đời vào thời Huyền Trân công chúa sang làm dâu Chiêm quốc năm 1306. Từ 1402 khi Hồ Hán Thương cử Phạm Nhữ Dực vào làm Chánh Đô án phủ sứ phủ Thăng Hoa khai khẩn vùng đất mới. Thủy tổ của 7 tộc họ lớn của làng: Nguyễn Hữu, Lê Tự, Trương Công, Nguyễn Văn, Nguyễn Bá… đều là các quan đại thần theo Lê Thánh Tông trong cuộc bình Chiêm năm 1471, sau đó ở lại trấn nhậm vùng đất mới, lập nên làng Thanh Quýt.
Dương Văn An trong “Ô châu cận lục” đã cho biết Thanh Quýt là một trong 66 làng của huyện Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong với tên gọi là Kim Quất. Đến Lê Quý Đôn trong “Phủ biên tạp lục” viết năm 1776 thì Thanh Quýt có tên là Thanh Quất, một trong 18 làng thuộc huyện Lễ Dương, phủ Thăng Hoa”…
 (Nguồn: http://baoquangnam.vn/van-hoa-van-nghe/)

– Gặp anh hùng xin hỏi anh hùng
Cầu chi đi mười hai tháng phân cho cùng thiếp nghe?
– Kim Liên, Thủy Tú, Vĩnh Điện cho chí Câu Lâu
Quảng Nam ta có mấy cái cầu dài thay!
Chỉ đi chưa tới nửa ngày
Lẽ mô có lẽ đi rày một năm?
Bạn hỏi ta, nghĩ lại cũng nhằm
Cầu chi đi mười hai tháng? Có cầu Giáp Năm đó bạn tề!

 (Ca dao)

      Ông Bình dừng chân, nhìn về cánh đồng làng Phong Ngũ, những gốc rạ sau mùa gặt vàng hoe, xơ xác. Cổng đình làng Phong Lục rêu phong. Những người bạn họ Đỗ còn đâu đó. Đỗ Diện còm cỏi trên chiếc xe đạp một thời trơ khung, chân đất. Lăn theo dòng đời, lưu lạc…
      Đến làng Phong Nhị, nhớ ngôi nhà chênh vênh trên gò đất, giữa đồng của Nguyễn Chung (nhà thơ Nguyễn Hàn Chung). Phong Nhứt của Thân Tám (Thân Hùng – đã mất). Làng Đông Hồ với Dương Thanh Thu (Thu Dèo), khốn khó ngồi vá xe bên đường, mịt mù khói bụi. Cầu Giáp Ba rẽ trái đến nhà Nguyễn Đình Ký, nhà thơ lặng thầm bên dòng sông lấp, nay đã nặng tai. Làng Ngọc Tam, Ngọc Tứ giáp Hạ Nông, quê ông…
     Ông Bình lặng người nhìn dòng sông Vĩnh Điện lững lờ trôi, bóng mây chìm nổi, ẩn hiện bóng dáng tuổi thơ ông, bạn bè ông dưới mái trường trung học Nguyễn Duy Hiệu ngày nào.
    Vĩnh Điện, chính nơi này. Nhiều nhà thơ, nhạc sĩ nổi tiếng một thời như nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, La Hối. Các nhà thơ Nguyễn Nho Sa Mạc, Hoàng Lộc, Phan Duy Nhân, Đynh Trầm Ca, Phạm Ngọc Lư, Mang Viên Long, Vũ Hữu Định, Đoàn Huy Giao, Nguyễn Hàn Chung… đã từng đến và được sinh ra tại Vĩnh Điện, điểm dừng chân giữa đường cũng là nơi cư ngụ, dạy học, sáng tác của hàng chục người cầm bút lúc mười tám, đôi mươi. Trên các tạp chí văn nghệ nổi tiếng của Sài gòn như Văn, Sáng Tạo, Văn học, Đối Diện, Khởi Hành, Ý Thức… đều có đăng sáng tác.
      Điện Bàn có tháp Bằng An, tháp Chăm duy nhất còn lại, hình bát giác, được xem như Linga khổng lồ. Bãi biển Hà My - Điện Dương, Điện Phương nổi tiếng các làng nghề truyền thống như đúc đồng, gốm, gỗ mỹ nghệ, dệt chiếu, mỳ Quảng Phú Chiêm, bê thui Cầu Mống, khu du lịch Bồ Bồ....
     Giữa hai sông Vĩnh Điện và Thu Bồn, từng là thủ phủ của Quảng Nam xưa. Dinh trấn Thanh Chiêm thời chúa Nguyễn (1558 - 1775) và thành tỉnh Quảng Nam thời nhà Nguyễn (1802 - 1945), thương cảng Hội An sầm uất và những làng nghề nổi tiếng như Phước Kiều, Kim Bồng…
     Thôn Bồng Lai, làng La Qua (Điện Minh, Điện Bàn), nơi có dòng họ Nguyễn Nho tài hoa: Nguyễn Nho Sa Mạc (Nguyễn Nho Bửu 1944-1964), Nguyễn Nho Nhượn, Nguyễn Nho Khiêm…
     Những khu vườn mai dưới nắng xuân vàng rực. Cô bé Nguyễn Thị D. tung tăng sớm tối đi về. Ông Bình nhớ thời ngớ ngẫn, đạp xe băng băng đến con đường nhỏ, có hàng cau cao vút, ngôi nhà ngói cổ kính thâm nâu. Lặng lẽ nhìn, rồi lặng lẽ quay về.

“Rằng xa, ngoài ngõ cũng xa
Rằng gần Vĩnh Điện, La Qua cũng gần”(ca dao)

     Ông Bình thẩn thờ quay ngược xe. Qua khỏi cầu Vĩnh Điện, rẽ trái về quê ông. Đối diện cổng trường Nguyễn Duy Hiệu, ngày xưa là cánh đồng Điện An, ruộng lúa xanh ngát, nay đã thành chợ mới Vĩnh Điện. Lồng chợ hai tầng nguy nga, đầy ắp hàng hoá. Những con đường nhựa thẳng tắp như phố thị. Nhà của chị em Trần Thị… chỉ còn lưu dấu mái tole cũ kỹ, bị che khuất bỡi những nhà cao tầng, mất dấu chân người khi đô thị hoá.
     Đầu đường ĐT609, hướng về Ái Nghĩa. Quán cơm, mì Quảng cô Tám ngày xưa, nay đã chuyển giao cho con gái út, bán bún bò Huế. Học xa nhà, ông Bình đuợc mẹ gói cơm lá chuối với cá rô đồng kho mặn hoặc muối đậu, ăn trưa. Thỉnh thoảng ông được cùng cậu Lê Văn Đa – Giám thị trường Nguyễn Duy Hiệu, thầy Trần Văn Tường, thầy Vương Thanh… dùng cơm quán cô Tám.
     Ông Bình dừng lại - Bến Đá. Ngày ấy, những chiếc ghe thương hồ ngược xuôi, mỏi chân neo đậu nơi này. Tan học, ông cùng Nguyễn Văn Diên (đã mất), Lê Viết Nem (Hoàng), Phạm Phú Cừ, Khúc Thừa Thế… cởi truồng tắm sông, ngụp lặn có lần suýt chết dưới đáy ghe. Nhà Phan Xuân Dũng đây rồi. Chỉ còn “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” (Thăng Long thành hoài cổ - Bà Huyện Thanh Quan).
     Ngang Tháp cổ Bằng An. Tháp có hình Linga khổng lồ tượng trưng cho thần Shiva – một trong những hình ảnh thiêng liêng nhất của mặt trời, theo quan niệm của người Chăm-pa. Trước cửa có tượng hai con thú, gọi là Gajasimha, hình nửa như sư tử nhưng lại có vòi ngắn quay lên trên, mỗi con đều có cái diềm đeo cổ. Như các tháp Chăm khác, tháp Bằng An cũng quay cửa về hướng Đông để đón ánh mặt trời.
     Tháp trầm mặc u buồn. Nhìn khung cảnh nhếch nhác tưởng chừng như hoang phế, ông chạnh lòng nhớ về Công chúa Huyền Trân…
“Tiếc thay cây quế giữa rừng/ Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo” (ca dao)
     “Năm 1301,Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông được Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân mời vào thăm và tiếp đãi nồng hậu. Khi ra về, Thái thượng hoàng có hứa gả con gái cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có chính thất là Vương hậu Tapasi, người Java (Indonesia ngày nay). Sau đó nhiều lần, Chế Mân cử sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng nhiều quan lại nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc vương Trần Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành.
     Năm Bính Ngọ, Hưng Long năm thứ 14 (1306), tháng 6 Chúa Chiêm Thành là Chế Mân dâng hai châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) làm hồi môn, vua Trần Anh Tông khi đó mới đồng ý gả Công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Công chúa khi về Chiêm Thành, được phong làm Vương hậu thứ 2 với phong hiệu là Paramecvari.
     Tháng 5, năm Đinh Mùi (1307), quốc vương Chế Mân băng hà. Thế tử Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng và báo tang.
     Theo Đại Việt sử ký chép lại, Trần Anh Tông nghe rằng:  Theo tục nước Chiêm, Quốc vương chết thì Vương hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Trần Anh Tông liền cử Hành khiển Trần Khắc Chung sang viếng tang và tìm cách cứu công chúa. Trần Khắc Chung cứu được công chúa và đưa xuống thuyền. Cuộc hải hành kéo dài tới một năm và theo "Đại Việt sử ký toàn thư" thì Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa”.
     Sau khi công chúa Huyền Trân trở về Thăng Long, theo di mệnh của Thái Thượng hoàng, bà xuất gia ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh). Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng.
     Cuối năm Tân Hợi (1311), Hương Tràng cùng một thị nữ đã quy y đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau đó, am tranh trở thành điện Phật, tức chùa Nôm Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự.
     Bà mất ngày mồng 9 tháng Giêng năm Canh Thìn (1340). Dân chúng quanh vùng thương tiếc và tôn bà là Thần Mẫu và lập đền thờ cạnh chùa Nộm Sơn. Nhớ ngày công chúa mất, hàng năm trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong ở Huế.
     Các triều đại sau đều sắc phong công chúa Huyền Trân là thần hộ quốc. Nhà Nguyễn ban chiếu ghi nhận công lao của công chúa Huyền Trân "trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng", nâng bậc tăng là "Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần".
(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/)
     Ông Bình nhìn về phía đối diện tháp Bằng An, ngôi trường tiểu học Vĩnh Hoà (Điện An) năm xưa, nay là trường Phan Thành Tài bề thế.
     Ông Bình sực nhớ chuyện ông làm chủ hôn, đám cưới chú D. và cô Tr., hình như năm 1979. Ngày ấy, ông Bình xin được rẻo đất đầu làng, gần ngã ba con đường cái cũ. Ông dựng tạm căn nhà …
     Đêm về, bên ngọn đèn dầu, lật ngửa chiếc xe đạp, nghiên cứu, vẽ cách đan tăm, tháo ra, lắp vào đến sáng chưa xong. Tìm hiểu để làm thêm nghề sửa, vá xe đạp.Tiệm sửa xe dần hồi cũng có khách. Ông Bình cùng chú D. bận rộn tối ngày.
     Trong một lần chú D. chở khung xe đạp đi sơn ở Vĩnh Điện gặp cô Tr. Cô Tr. gái thành phố, theo cha mẹ về quê. Cô dạy tại trường tiểu học Điện An (nay là trường Phan Thành Tài), không biết chú D. tán tỉnh thế nào, hôm sau cô đạp xe mini lên nhờ chú D. sửa giúp. Họ đã bén duyên nhau, nhưng mẹ chú D. không tán thành!
     Họ tự tổ chức thành hôn, trên sân trường tiểu học này. Mùa hè vắng hoe, bên nhà gái không người thân. Những thầy cô giáo đồng nghiệp phụ giúp, trang điểm cô dâu bằng màu son hoa phượng. Thầy hiệu trưởng Th. tuyên bố lý do, ánh mắt yêu thương nồng cháy của tân lang và tân giai nhân lấp lánh, hạnh phúc và làm dịu mát những tia nắng của buổi trưa hè.
     Ông Bình đại diện nhà trai, chuẩn bị đáp từ. Bỗng mẹ chú D. xuất hiện bất ngờ, chiếc gậy trong tay bà kéo phăng tấm biển chữ “Tân hôn”, đêm qua ông Bình cắt vội. Thế là tan. Ông Bình ôm bà mẹ. Chú D. không thấy đâu. Thầy cô giáo hoảng hốt khi phát hiện chú D. định treo cổ trong phòng học… Nhưng bây giờ, cô chú đã vượt qua bao nhiêu phong ba bão táp, con cháu đề huề.
     Vòng bánh xe quay, đưa ông Bình đi theo hoài niệm. Đây rồi cống Cửu Duật. Khi nước băng đồng trong mùa mưa lũ. “Ông tha mà bà chẳng tha/ làm cho cái lụt hăm ba tháng mười”. Là những ngày nghỉ học. Bàu sen hương thơm ngát, chạy dài về phía xứ Miên La, Đồng Thộn thuộc làng Bất Nhị, ra sông Thu Bồn.
“Sông Thu Bồn xuôi về Cửa Đại/ lạch Bình Long chảy mãi ra Hàn…”. Từ đây về quê ông, con đường quốc lộ cong cong hình chữ S. Ngõ Nghè Mai, Chánh Chước vào làng Hạ Nông…
     Dòng ký ức ùa về trong ông. Ông Bình học được nghề gò từ trại cải tạo. Công xá từ những chiếc thùng tưới, thùng gánh nước, thay đáy thùng… Mỗi chiều về, cũng mua cho mẹ chút trầu cau, mua cho con chút đường, thay sữa!

THÂN PHẬN

Mẹ tần tảo nuôi con
Đêm mưa và ngày nắng
Cằn cỗi cuộc đời nước mặn đồng chua
Quê ta nghèo mùa được mùa thua
Theo gió bão sớm dưa chiều muối
Tuổi tám mươi Mẹ chưa một lần tiếc nuối
Nuôi con khôn lớn những ngày
Gắng học nên người
Tạo dựng ngày mai
Thời của Mẹ qua rồi thời nô lệ
Đời ta nghèo, nhà ta bao thế hệ
Nước ta nghèo cần chất xám nơi con

Nhưng Mẹ ơi, con chờ đợi mỗi mòn
Xin làm những gì hợp với nghề con
Người ta bảo anh nên làm ruộng rẫy
Và con rất tự hào hăng say cày cấy
Cử nhân như con biết mấy vạn người
Đạp xe thồ, bốc vác chợ trời
Hay tay lấm chân bùn như con của Mẹ
Nên đàn em con
chẳng học hành ra lẽ
Vì tương lai không định hướng nên người

…….
    Sau năm 1975, cha mẹ quy cố hương. Cha mẹ dường như đã già hơn mười tuổi. Cái nôi thời thơ ấu, gần như hoang phế bỡi chiến tranh, gạch vỡ vây quanh làm tường, mái tole cũ kỹ, tạm bợ. Cha ốm yếu, mẹ và em không biết làm ruộng, hai con còn nhỏ…
    Ông Bình đi trả công thay mẹ. Mẹ - con gái thành phố - theo cha về làm ruộng, tất bật với heo gà lam lũ. Đàn ông như ông quá tệ, xóc đầu này, tuột đầu kia, không gánh nổi hai bó lúa, lưng cong như con tôm, quỵ xuống bên bờ ruộng, thôi đành vác từng bó lên vai… Chú sáu B. nói thôi, không gánh nữa, gom lúa đã gặt, chú gánh giúp. Đứng trên mảnh ruộng này, là rộc Ngang, đám Lớn, bàu Lát… cha đã dành dụm, không dám ăn tiêu để có nó. Bây giờ của HTX, ông Bình đi làm thuê.
      Ngày xưa đi học, ông Bình băng vườn Chùa, băng rộc khi mùa tháng tám đã thu hoạch, trơ đất bệ – thuộc xóm Nga Tiền. Theo hướng tây bắc gần cây số, Miếu Bà linh thiêng nép mình dưới cây xoài cao vòi vọi. Dọc theo bờ thuỷ lợi đến trường học Mới (Hạ Nông Trung bây giờ), nơi đây có trạm bơm nước, chú B. ba-te vác cuốc theo dòng, khơi chảy vào từng đám ruộng. Những con dế than, đế cơm ngơ ngác, xoè đôi cánh có hai viền trắng tròn, bay tứ tung. Đàn sáo sậu, chèo bẻo tha hồ chao liệng, săn mồi.
   Ôm cặp qua chiếc cầu tre đong đưa, lạch Bình Long: Hạ Nông trên (Hạ Nông Tây), qua cầu ông Trọng đến trường. Trưa tan học, lũ trẻ chân không dép chạy như ma đuổi. Những chuyện kể của người lớn ám ảnh: ma dơi, ma dú… Dọc bờ lạch, tre gai chằng chịt, cọ xát vọng tiếng ỉ ôi, như ma Hời kêu than vong quốc. Cũng có khi ông Bình rẽ con đường nhỏ, bên nhà ông Đốc Thuyên (con trai duy nhất của chí sĩ Trần Quý Cáp), qua rộc ngang, nghĩa trang Gò Bướm, về nhà.
     Những địa danh La Hòa - có nhà thờ Công giáo La Nan,  Bất Nhị, Hạ Nông, Nông Sơn, Miên La, Đồng Vòng, Thai La, Nam Hoà… Bãi biền dâu xanh ngát:

“Một nong tằm bằng năm nong kén
Một nong kén bằng chín nén tơ
Em thương anh tháng đợi năm chờ
Lòng nào dứt mối lìa tơ cho đành” (ca dao)

 ……….
    Cha cho mấy cây cột “mùn”, ông Bình cùng anh Ngộ kéo xe “” ra Hòa Châu. Ông bà ngoại cho tre, bà ngoại làm gà ăn cơm tối, anh em đẩy xe về trong đêm.
    Chú Liếng (đã mất) giúp làm nhà, cha dạy đánh tranh rạ, trộn đất sét với rơm làm vách.
    Nhìn con còi cọc, ông Bình ăn trộm con gà của cha. Đêm tối bắt nhầm con gà mái đẻ, cha chửi quá trời! Không có gì mời “quan viên”, lại nghe nói xương chó hầm đậu xanh trị bệnh ghẽ lở trẻ con, ông lừa con chó của cha chạy xuống mương thủy lợi, trấn nước, đãi khách !
    HTX cần người đo đạc. Ông Bình cùng anh Khóa (đã mất), Nguyễn Đức Thu lập nên “bản đồ giải thửa” đầu tiên của HTX Điện Phước. Ngày đi ngắm, cầm “mia”, đêm về dạy bổ túc văn hóa. Ông Bình dạy các môn tự nhiên, Trần Hoài Thanh dạy văn, Nguyễn Đức Thu dạy “toàn bộ” cấp 1, Thầy Điểu quản lý, Tào Bạn – Bí thư xã đoàn hiệu trưởng. Mỗi mùa được chia 60 kí lúa “điều hòa”.
    Dượng Tường (đã mất 08.10.2017) cho chiếc xe Lambretta, sơn sửa lại thật đẹp. Có người gạ đổi xe honda 67, ông Bình tu bổ ngon lành, nhưng không có xăng để chạy. Để bán có giá, ông tháo tung theo sách dạy:”mở trước, lắp sau”, chùi rữa cẩn thận, đến piston, xy-lanh cạo trắng tinh, còn dùng giấy nhám đánh bóng loáng! đến khi ráp vào không biết cái nào trước, cái nào sau.  Nửa đêm, chạy vào nhờ anh Lê Cao Diện (Thư ký UB xã Điện Phước – GĐ/BHXH Điện Bàn sau này), lắp ráp.           
     Gần sáng, đổ xăng, máy nổ rầm trời, tệ hơn lúc chưa sửa, do lòng xy-lanh không còn kín hơi. Nhờ vậy ông Bình biết sửa xe máy. Bán cho anh H. – trại gỗ Hiệp Thành. Ông mua lại xe Suzuki, không xăng, đắp chiếu. Trần Hoài Thanh mượn đi Đà Nẵng, lúc về nổ banh lốp. Không có lốp để thay, ông đổi ngang chiếc xe đạp duya-ra của Nguyễn Xuân Thống (bạn học Nguyễn Duy Hiệu – Nay ở Bình Mỹ, Củ Chi, đã mất). Bị trộm lấy mất.


     Điện Phước, quê hương tôi ngày ấy. Tình làng nghĩa xóm tràn đầy. Những ngày thơ ấu thanh bình, ông Bình  không ngờ thế hệ các ông, đã được những bàn tay ma quái, lông lá chuẩn bị đưa vào lò than chiến tranh nghiệt ngã. Mộ phần dành cho tuổi đôi mươi đầy hoa mộng, đã được lập trình, từ những năm đầu thập niên 60.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

TRĂNG TREO MÁI LÁ

Tôi đi loanh quanh vì không biết đường, vác trên vai bao tải nặng trịch. Bỗng nhiên cô gái từ trong nhà bước ra chận đường: - Anh tìm ai mà...