Trường Sao Mai đã cho tôi biết bao kỷ niệm
êm đềm. Một anh học trò nhà quê ngớ ngẫn, tự ti. Mặc dù là ngôi sao tỉnh lẽ! Sự
hoà nhập thật khốn khổ. Cuối năm đệ nhất cấp, chẳng để lại ấn tượng gì. Ngoại
trừ những lần ê mặt, vì không cân bằng được phản ứng hoá học, không giải được
phương trình bậc 2! Chỉ còn nhớ:“ Tình
Delta âm vô nghiệm muôn đời…”
Đêm Noel cùng bạn bè mới tung tăng, nhẩm kinh
Phật thay vì kinh Thánh. Sao Mai là trường Công giáo, ai cũng có tên Thánh. Bạn
bè đặt tên thánh cho tôi là… ”Luxiphe”.
Tôi hãnh diện với tên Thánh, mặc dù không biết ông Thánh ấy là ai!
Linh Mục Vũ Như Huỳnh
Cha
gầy dựng sự nghiệp. Mở xưởng mộc cỏn con, quy tụ con cháu chạy loạn từ quê ra… anh
Bồng, anh Ghè. Anh Ngộ sốt rét vàng da, bủng beo, học bào học cưa. Cha mẹ bao
bọc cả nhà chú Dần, cô Ngũ…Thuê nhà cho gia đình bác Xứng. Anh Hiệp học may, em
Bình đi ở đợ nhà dì Chín, chú Dần bán phở dạo.
Một lần đi học về, gặp lại cô bé ngày xưa T.H – H. học trường Bồ Đề. Đưa
nhau về ngang nhà, đường Phan Chu Trinh rồi thôi. H. về khu định cư An Hải, bên
kia sông Hàn - qua cầu Trịnh Minh Thế (cầu
Trần Thị Lý)
Những
ngày nghỉ học, tôi đạp xe lang thang qua An Hải. Đi trên đường cát hun hút, với
tiếng vi vu của phi lao, đến tận bãi tắm Mỹ Khê.
Anh Bồng, anh Ghè bị bắt lính. Cha bó tay vì không có thợ. Đổi nghề, cùng
bác Hương Ngân làm hương. Cha đi bộ xuống chợ Hàn, mua hương liệu, tăm nhang, bảo
tôi chở về. Tôi xấu hổ sợ gặp bạn bè… Mẹ đi làm sở Mỹ. Chiều nào về cũng có
quà, hôm thì socolate, kẹo, đồ hộp. Em Ngọc đi học nửa chừng thì nghỉ, cha cho học
nghề may. Em Lũy vào lớp 2.
Cậu
Bốn (Đa) và chú Thành thầu giặt đồ Mỹ.
Tối về cả nhà thi nhau lục túi quần, túi áo, có khi đồng hồ, bút máy, tiền đô.
Cả nhà se nhang, dán bao hương, vào bao đi bỏ mối, hàng xóm cũng làm gia công…
Niên khóa 1965 – 1966, tôi học đệ Tứ. Nhờ cô Bạch - thu ngân trường Sao
Mai, giới thiệu đi dạy kèm, bây giờ gọi là gia sư. Đã bắt đầu có bạn đến nhà chơi,Vĩ
Văn Thông, Tôn thất Hoàng Tú, Trần Đình Định, Lê Quang Chính (con thầy Lê Cần). Sau này, Thông - pilot trực thăng, Tú học y khoa Huế ra bác sĩ,
Định luật sư ở Mỹ, Chính - giáo sư, dạy ở Singapore.
Năm 1966 – Phật
Giáo xuống đường.Tất cả trường ở Đà Nẵng bãi khóa. Các thầy cùng bàn thờ Phật Tổ,
tràn ngập các con đường Ông Ích Khiêm, Phan Chu Trinh, Hoàng Diệu… Lực lượng
TQLC từ Saigon bay ra trấn áp. Thành phố Đà Nẵng như bãi chiến trường.
Một tuần mấy lần, Định lên rủ nhau tắm biển Mỹ Khê. Cha Định là ông
Trần Quốc Thái, con nuôi Ngô Đình Cẩn, quận trưởng Điện Bàn. Sau ngày lật đổ
Ngô Đình Diệm 01.11.1963, ông Thái ở tù, nhà cửa bị tịch thu. Định là bạn thân
nhất của tôi.
Thầy Vĩnh Linh, Thầy
Thanh dạy toán, Thầy Trần Đại Tăng (nhà
thơ Trần Hoan Trinh) dạy đại số, Thầy Hương dạy lý hóa, Thầy Lê dạy sử địa,
Thầy Đoàn Đức Triệu dạy triết, Cô Điểu dạy vạn vật, Thầy Hoàng Ngân Hà dạy anh
văn, Cha LM Vũ như Huỳnh dạy pháp văn…Thầy Vĩnh Linh sau năm 1975, đại biểu Quốc
hội.
Ngày đám giổ ông
Ngoại. Tôi lén lấy xe mobilette của chồng dì ba Cẩm, dắt ra đường đạp nổ máy,
chạy một mạch đến ngã tư Phan Chu Trinh – Lê Đình Dương. Chạy quá nhanh, khi rẽ
sang đường bị ngả chổng vó lên trời, trầy xướt chân tay, xe quẹo cổ. Tôi cố dắt
về nhà. May mà các cụ đang nhậu chẳng ai hay!
Anh em trong nhà hơn kém nhau vài tuổi, như Lực (con dì Năm – mất năm 2011), Thạnh (con dì Bảy), Vân (con cậu bốn
Đa – mất năm 1972). Ai cũng thương Vân, vì Vân là cháu nội. Tôi ra đời sớm
nhất trong các cháu, nên được ưu ái của các dì, các cậu chưa vợ chưa chồng. Đi
học về không ngủ trưa, chân không mang guốc, là chết với dì Chín, cậu Nghĩa!
Từ trái: Cậu mợ Lê Văn Nghĩa & Đặng Thị Huệ và anh chị Trần Thanh Ngọc (Quảng Ngãi)
Cậu
Nghĩa (nhà thơ Tô Yên/ Lê Việt Nguyên)
mua sách cho tôi đọc, rồi kể lại cho cậu nghe. Ngày dì Chín về nhà chồng, dì dắt
theo tôi và Vân. Bắt ngủ bên dì trong đêm tân hôn. Hai đứa ngủ say như chết. Sáng
ra dì dắt về sớm, không biết chuyện gì đã xãy ra! Cậu Ngãi có bồ (mợ Xuân sau này). Đi dạy về, cùng bạn bè
đánh bài cả ngày chủ nhật. Tôi và Lực ra đường “cảnh gíới”, nếu thấy bồ cậu lên, chạy vào báo động. Hai đứa ham bắn
chim, quên mất phận sự. Bồ cậu vào nhà, thấy bốn thầy say mê với mấy con bài, bỏ
ra về. Vậy là hai thằng vô tích sự, bị trận đòn tơi tả!
Khoảng
năm 1966 – Cậu Ngãi cưới vợ. Mợ Xuân, con nhà danh giá nhất Đà Nẵng, học trường
Tây. Cậu làm Précepteur (gia sư) rồi
“cua” được mợ.
Thời cuộc đảo điên, nghề làm hương, không phải là nghề của
cha. Con cái vô tư, chỉ biết ăn và học. Mẹ sớm đi tối về… Anh Tâm được cha mẹ
nuôi ăn học từ lớp đệ Thất. Chú mười Thi lang bạt kỳ hồ. Ông bà Nội mất khi chú
còn nhỏ, chú ở với cha mẹ tôi. Chú đi học may, rồi cưới vợ. Có lẽ chú không
yêu, sau ngày thành hôn chú bỏ nhà lên Đà Lạt. Thím mười Thôi cũng vào Saigon,
đi làm thuê. Chỉ có mẹ gánh hậu quả, không sinh mà có dưỡng. Nuôi em Thu từ
ngày đỏ hỏn đến năm, sáu tuổi. Thím về xin dẫn đi…
Niên khóa 1966 – 1967, đệ Tam. Thêm nhiều
bạn bè mới. Lớp đã phân ban. Một số học sinh giỏi, được chuyển vào trường Phan
Chu Trinh. Thêm môn tiếng Pháp, do Cha Vũ Như Huỳnh phụ trách. Cha là hiệu trưởng,
nên đứa nào cũng kính sợ. Tôi là học sinh chăm chỉ có hạng của lớp, Cha Huỳnh cầm
cây bút chì hỏi: “ – Qu’est ce que c’est?”
Tôi lúng túng, nghe văng vẵng…xích lô, vội trả lời:”- C’est…tông xích lô (un stylo)! Cha nghĩ tôi nghịch ngợm, thật ra
tôi chẳng biết gì!
Cha cho đi học thêm Anh văn ở Hội Việt Mỹ, học thêm toán
thầy Trần Đại Tăng (nhà thơ Trần Hoan
Trinh). Lê Quang Chính (con Thầy Cần
– dạy Anh văn) cùng lớp, nói giọng tôi đọc tiếng Anh như tiếng… Pháp. Cha
mua cho chiếc xe đạp mới, bị xe jeep của thầy giáo Mỹ cán quẹo cả vành. Tôi bắt
đền, đem hết khả năng tiếng Anh sẳn có, kèm theo tay chân, vậy mà chỉ nhận được
câu:”I don’t understand”
Vào đầu năm học, Đà Nẵng rúng động vì chuyện thầy Vinh Anh – Hiệu trưởng
Phan chu Trinh. Thầy coi thi, bị thí sinh đâm chết ở Nha Trang. Hầu hết học
sinh các trường đi đưa tang Thầy.
Năm
đệ Nhị (1967 – 1968) là năm ghi sâu đậm
nhất thời trung học. Nhóm bạn thân cùng tranh đua học tập và họat động báo chí.
Chị Hồ Thị Ngọc Chánh luôn nhất lớp, Tôn Thất
Hoàng Tú, Vĩ Văn Thông, Phan Thị Thu Thanh, Nguyễn Thị Hồng... Hồng to béo, thường mang thức ăn đến lớp, thân
thiện với tôi trên mức bình thường, bạn bè trêu chọc :”L.19 chơi với B.52”
Những ngày ôn thi Tú Tài 1, Hồng
đến nhà học chung. Hồng dạn dĩ thích chơi trò yêu đương hơn học. Có những lúc gần
vượt quá giới hạn, tôi nhút nhát không dám dấn thân. Nhưng rồi Hồng bỏ thi, về
Nha Trang, sau đó được biết Hồng sinh
con! Nếu…
Thi đậu tú tài 1, cha rất vui.
Hai cha con đi bộ xuống ngã năm, qua đường Hoàng Diệu. Cha mua chiếc xe Vélo -
Solex mới toanh! Tôi mừng hết biết, đổ xăng chở cha về nhà… Thầm cám ơn cha.
Bây giờ nhớ lại. Tôi là đứa
con bất hiếu. Một lần cha nói chở đi tìm mối bán hương ở chợ Hàn. Trời mùa đông
rét mướt, gió sông Hàn thổi lên lạnh buốt, cha khoát áo măng-tô cũ, vừa đi vừa
ho, tìm không được mối nào… Trong khi tôi e ngại nhìn quanh, xem có bạn nào bắt
gặp mình không! Từ đó, cha không nói chở đi nữa. Tuổi mười lăm, mười bảy chỉ
mghĩ về mình, cơm áo gạo tiền ỷ lại cha mẹ, đôi lúc xin tiền rong chơi, cha mẹ
không cho, mặt còn phụng phịu.“ Đến khi
có gia đình, có con và con đã trưởng thành, chưa hiểu hết lòng cha mẹ”.
Ôi ! công ơn cha mẹ cũng thấm
dần và thấu hiểu theo thời gian. Mỗi ngày mỗi khác, sâu đậm ân tình, nặng trĩu
lòng. Theo suốt đời bôn ba danh lợi, mưu sinh.
Cha mẹ ơi! đến khi con hiểu,
cha mẹ không còn nữa. Dưới tuổi ba mươi quanh quẩn bên mẹ, nặng tình với mẹ hơn
cha. Tuổi năm sáu mươi nặng tình cha hơn mẹ. Sự nghiệp một đời, theo gương bươn
chải của cha.“ Đi khắp thế gian không ai
tốt bằng mẹ, gian khó cuộc đời không ai khổ bằng cha“. Ngẫm nghĩ sao mà
đúng quá.
“ Tiền bạc là của con, địa vị
là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, chỉ có sức khỏe là của mình.
Cha mẹ yêu con là vô hạn, con
yêu cha mẹ là có hạn.
Con ốm đau cha mẹ buồn lo, cha
mẹ ốm đau con nhòm một chút, hỏi vài câu là thấy đủ rồi.
Con tiêu tiền cha mẹ thỏai
mái, cha mẹ tiêu tiền con không dễ.
Nhà cha mẹ là nhà con, nhà con
không phải là nhà cha mẹ”
Khi hiểu đời, ta coi việc lo liệu cho con là
nghĩa vụ, là niềm vui, không mong báo đáp, chờ báo đáp!
Năm 1968 - Tết Mậu Thân, súng
nổ khắp thành phố. Nhà tôi trên đường Phan Châu Trinh, gần Quân đoàn I (Quân Khu 5). Chiến sự nổ ra khắp các đô
thị miền Nam… Quanh doanh trại, thây người chết cong queo.
Phạm Văn Đức có xe Honda 68, giống con
ngưa trời, thường đến nhà rủ tôi đi học. Nhưng rồi Đức thi hỏng tú tài 1, biệt
tăm.
Sau kỳ thi, một số lên đường nhập ngũ,
“Rớt tú tài anh đi trung sĩ…”. Năm đệ
Nhất (1968 – 1969). Ba mẹ Thái nhờ
tôi xin chuyển trường cho Thái và Bình. Từ trường Bồ Đề qua Sao Mai. Học đệ Thất
cùng với Lũy.
Cuối năm, chuẩn bị thi tú tài 2. Tôi
thay mặt học sinh toàn trường đọc diễn văn cám ơn các cha, các Thầy Cô đã dày
công dạy dỗ… Đặc san Hành Trình của trường Sao Mai ra đời, đã mang theo những bài văn, thơ vụng
về của tuổi học trò…
TÌNH YÊU SA MẠC
Về thành phố một lần xa thành phố
Tìm hoàng hôn trong đáy mắt người yêu
Tôi bỗng dưng ghê sợ những buổi chiều
Miền âm hưởng tình yêu khô đọng hẳn
Hôm tôi về xuôi chân miền sa mạc
Nghe tình yêu ấm lại cát mùa thu
Người đã lỡ theo đường về bến khác
Tôi cô đơn lạc lối bụi sa mù
Người bên ấy nghìn trùng sao gặp gỡ
Thân lạc đà xin làm kiếp thân chim
Miền biển động chim vỗ mình than thở
Rồi mùa xuân chim lặng lẽ đi tìm
Người âm thầm về rừng thiêng lạnh lẽo
Nhưng chim trời tung cánh lạc loài xa
Miền hải đảo chim xin dành cuối nẻo
Sa mạc vàng chim đơn độc bay qua
Rồi một sớm người tìm về sa mạc
Tháng ngày qua xoá hẳn dấu chân người
Mỏi cánh ngang trời thân chim xơ xác
Rồi máu đào nhuộm đỏ cát vàng tươi
(1969)
Mối
tình đầu chớm nở. Tôi đã biết nhớ nhung em Thái. Những trang nhật ký gói ghém
tình yêu thương cô bé hàng xóm, tự lúc nào. Đêm khuya nhìn sang bên Út (anh trai Thái) đang ôn thi tú tài 1, em
đã ngủ say. Một lần tôi tìm cớ sang nhà, nhìn em và em đã hiểu khi em đọc trộm
những trang nhật ký…lời tỏ tình ngây ngô của tôi.
Tôi
đậu tú tài 2 trong niềm tự hào và vui mừng của cha mẹ, người thân. Năm đứa cùng
thi, chỉ mình tôi đỗ! Nhưng Thái lại buồn vì sắp cách xa. Những giọt nước mắt của
em đã nói lên nhiều điều và ai cũng hiểu lòng em! Em chưa tròn mười sáu…
Tháng 8/1969. Cha dắt tôi ra Huế. Kèm theo thư giới thiệu
của Cha Vũ Như Huỳnh, gửi Cha quản lý cư xá Xavier, nhưng đã hết chỗ. Cha gửi
trọ nhà anh ba Hóa, trên đường Chi Lăng, gần chùa Tàu. Nhà anh ba Hóa có cô
Thu, bên chùa có cô Cơ. Hai cô đang học đệ Tứ trường Chi Lăng. Thỉnh thoảng nhờ
tôi hướng dẫn làm bài tập…
Tôi ghi danh học
chứng chỉ SPCN, tại trường Đại học Khoa học. Từ năm này, trường Đại học y khoa
Huế không tuyển dự bị, chỉ tuyển các
sinh viên đã có SPCN. Tôi hy vọng năm tới sẽ bước chân vào trường Đại học Y
khoa, thỏa niềm mong ước của cha mẹ.
Nhưng đến
tháng 10, cha gọi tôi về Đà Nẵng, chuẩn bị đi học Saigon. Cha gửi trọ nhà chú
Thơm, gần cầu Phan Thanh Giản (Cầu Điện
Biên Phủ), ấp Nhất Trí 3, Gò Vấp, Gia Định. Mấy năm trước gia đình chú Thơm
ở Đà Nẵng, cùng xóm. Có em Nga, Mỹ. Nga đang học lớp đệ lục trường Văn Hiến, Đa
Kao. Mỹ học lớp nhì. Thím Thơm bán tạp hóa, chú làm việc tại Bộ Tổng Tham Mưu.
Cha gửi tiền mua xe Mobilette đời mới (Motobicane)
để đi học.
Tôi nộp đơn
thi Y khoa Saigon, hỏng! Ghi danh SPCN ở Đại học Khoa học, hy vọng năm tới sẽ
thi lại y khoa.
Những ngày ở
nhà chú Thơm, ngoài thời gian đi học, tôi phụ giúp thím đi mua hàng, chợ Cầu
Ông Lãnh. Tối kèm em Nga, em Mỹ học hành. Nga rất dễ thương hay nhỏng nhẻo,
nhưng không chăm học. Đã biết làm dáng, mặc dù mới học đệ ngũ. Đôi khi chở em
đi học, em đòi chở đi chơi, tôi cũng muốn mà không dám! Đêm ngồi học bài và kèm
em học, nhưng chẳng học được gì. Em cứ gối đầu lên sách, nhìn tôi…
Những
ngày sắp Tết (Canh Tuất – 1970). Sau
mấy tháng cách xa, những lần hẹn hò cùng Thái trốn học. Ghi đậm thêm tình yêu
thơ dại trong em. Ra Tết vào lại Saigon, tâm hồn trống rỗng. Tôi cảm thấy ở lại
nhà chú Thơm sẽ không tiện, nên xin xuống nhà cô Phụng. Nhà cô dượng thuê chỉ
có hai mấy mét vuông. Cô dượng đi làm thợ hồ, sáng đi tối mịt mới về. Em Phụng (mất 20.5.2016) đã lập gia đình, có hai con nhỏ, cháu Tuấn
hai tuổi, cháu Trinh mới sinh, chồng trốn quân dịch. Hoàng học lớp ba. Tôi và
Hoàng thay nhau giữ cháu…
Sau
này đi dạy kèm, có tiền ăn và mua sách vở, đỡ cho cha mẹ phần nào
Thím mười Thôi về dắt em Xuân Thu vào
Saigòn, tìm cho tôi chỗ ở mới : 10 A Lương Hữu Khánh, Q3…
Những ngày đầu năm 1970, tình hình đấu
tranh, xuống đường của sinh viên Saigon sôi động. Giảng đường trống vắng, bãi
khóa triền miên.
Chưa kịp thi.
Tôi chán nản bán xe máy để làm lộ phí về quê. Ghé chợ Bến Thành, mua tặng cha
chiếc mũ nỉ, cha chửi: Đồ phá của!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét