Nhà ông Nội tôi – Thầy Kiều - thôn Hạ Nông Dưới (Hạ Nông Trung), Kỳ Ngọc (Điện Phước), Điện Bàn, Quảng Nam. Ngôi
nhà mái ngói cổ kính, bên cạnh chùa Hạ Nông.
Chênh chếch về hướng tây, cách nhà ông khoảng
hơn nửa cây số: nghĩa địa Gò Bướm, có mả ông Nghè (Trần Quý Cáp).
Tôi không biết chùa Hạ Nông có từ lúc nào.
Chỉ biết ba tôi cùng dân làng trùng tu, thành ngôi chùa khang trang, với chuông
đồng to lớn. Nghe nói, mỗi lần dộng chuông, ngoài Huế cũng vọng thanh âm. Quanh
chùa có ba cây da (đa) trăm tuổi, trụ
hình chân vạc. Về hướng tây bắc không xa, Miếu Bà linh thiêng u tịch, dưới bóng
cây xoài cao vòi vọi.
Quê tôi Điện Phước. Phía Bắc giáp xã Điện Hòa, phía tây
giáp Điện Thọ, phía Đông giáp Điện An, phía Nam giáp sông Thu Bồn. Rạch Bình Long nối dòng sông Thu Bồn băng qua làng, xuôi về
sông Hàn, Đà Nẵng. Điện Phước là xã thuần nông, đồng bằng màu mỡ, nhờ phù sa của
Sông Thu Bồn. Sông Thu Bồn bắt nguồn từ khối núi Ngọc Linh thuộc huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum và đổ ra biển tại cửa Đại,
thành phố Hội An. Một nhánh chảy
vào sông Vĩnh Điện, đổ vào sông Hàn, Đà Nẵng. Trước khi đổ ra biển tại cửa
Đại, một phần nước của sông chảy vào sông Trường Giang, đổ ra vịnh An Hòa Tam Quang, huyện Núi Thành. Sông Thu Bồn cùng với sông Vu Gia, hợp lưu tại Giao Thuỷ - Đại
Lộc, tạo thành hệ thống sông lớn có vai trò rất quan trọng đối với đời sống và
tâm hồn người dân xứ Quảng.
Ngày xưa…
“…..có
24 tên làng thuộc huyện Điện Bàn hiện tại: làng Đắc Ký, Hoa Thử (Phong Thử), Kỳ
Lam, Giáng La thuộc xã Điện Thọ hiện nay; làng Nông Sơn, Bất Nhị, Hà Khúc (Hà
Nông) thuộc xã Điện Phước, làng Đông Bàn thuộc xã Điện Trung, làng Đa Thử (Đa
Hòa) Cẩm Đăng (Cẩm Văn), Giáo Ái thuộc xã Điện Hồng, làng Lỗi Sơn (Cẩm Sơn), Diễm
Sơn thuộc xã Điện Tiến, làng Hoa Hồ (Đông Hồ), Bích Trâm thuộc xã Điện Hòa,
làng Lai Nghi, Phong Hồ, Kim Sa (Cẩm Sa); làng Thị Lại (Thi Lai), Kim Lữ (Cẩm Lậu)
thuộc xã Điện Phong; làng Nhân Triêm (Phú Triêm) thuộc xã Điện Phương, làng Uất
Lũy, Cúc Lũy (Khúc Lũy) thuộc thị trấn Vĩnh Điện và xã Điện Minh, làng Kim Quất
(Thanh Quýt) thuộc xã Điện Thắng.
……
Lê Viết Bang, theo phò vua vào Nam chinh
chiến, sau 1471 được vua Lê sai phái ở lại vùng đất Chiêm Động, có công khai khẩn
đất hoang, qui dân lập ấp, lập nên làng Bằng An, nay thuộc xã Điện An.
…….
Đô trị bình Chiêm Lê Tự Cường sau thời gian
phò vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm thắng lợi đã có công khai khẩn xứ Bàn Tràm,
làng Thanh Quýt thuộc xã Điện Thắng ngày nay)
…….
Có rất nhiều dòng Lê Tộc từ Thanh Hóa vào định
cư tại đất Điện Bàn như Lê Tấn Viễn định cư tại Điện Dương, Lê Cao Xảo tại Điện
Phước, Lê Viết Bảo tại Điện Nam, Lê Đường, Lê Tấn tại Điện Hồng, Lê Văn Đạo tại
Đông Bàn, Lê Đắc Sùng tại Giáo Ái, Túy La (Điện Hồng), Lê Đắc Vinh tại Điện Hồng...
……….
Trong
tập san nghiên cứu lịch sử số 5 – 1993 của Viện Sử học Việt Nam có
công bố một tài liệu gọi là “Bắc địa tấu từ” (bài tấu tâu về đất Bắc). Bài từ
được viết ngày 12 – 6-1492 (năm Nhâm Tý Hồng Đức thứ 23) này là của 24 dòng họ
từ các tỉnh phía Bắc, Cao Bằng, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tỉnh, Hải Dương vào khai
phá vùng Bắc sông Thu Bồn. Trong số đó có các dòng họ Phan, Hà, Trần, Thân,
Nguyễn, Tào, Ngô, Đỗ, Đoàn, Đinh, Trịnh, Mai, Huỳnh, Từ, Mạc, Lê... Bài từ có
nói đến các tên làng Nông Sơn, Hạ Nông, Châu Lâu, Đắc Ký...
………..
“Theo bước chân của vua Lê Thánh Tông
đi mở cõi, các bậc tiền nhân đặt chân vào Điện Bàn, xứ Quảng, rồi khẩn hoang,
lập làng lập xã. Hạ Nông xã, Câu Nhí xã, Châu Minh xã, Mỹ Á xã… những cái tên
xưa cũ đã từng lưu dấu trong “Bắc địa tấu từ”. Và trong “Ô Châu cận lục” của
Dương Văn An biên soạn năm 1553, các làng của Hạ Nông xưa, Điện Phước nay, đã
được xác lập như Nông Sơn, Minh Châu, Bất Nhị… Nhắc đến Bất Nhị, ai là người
Quảng mà không nhớ câu hát ru:
“Bồng
em mà bỏ vô nôi/ để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu/ mua vôi chợ Quán, chợ Cầu/ Mua
cau Bất Nhị, mua trầu Hội An”.
Chỉ có hơn 11 cây số vuông, nhưng Điện
Phước quần tụ đến 12 ngôi làng cổ, 50 tộc họ. Xã được thành lập vào tháng
11.1948, trên cơ sở hợp nhất 4 xã Quý Cáp, Hiệp Lực, Nông Chánh, Liên Châu. Xã
Quý Cáp hẳn là lấy tên của người chí sĩ sinh ra ở làng Bất Nhị. Cụ Trần Quý Cáp
(1870 – 1908) cùng Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, hợp thành “bộ ba
Quảng Nam” nổi tiếng, khởi xướng phong
trào Duy tân với triết lý “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh” còn giá trị đến vô bờ. Bên cạnh cụ Trần có
cử nhân Mai Dị (1880-1928), đỗ đạt nhưng không ra làm quan và lui về quê, cùng
các nhà Duy tân mở trường dạy học. Ông từng tham gia sáng lập và dạy học tại
trường Diên Phong, bị giặc Pháp nghi án và bắt bỏ tù trong phong trào Kháng
thuế năm 1908. Ở Điện Phước còn có tên tuổi vang danh là nhà ngoại giao Nguyễn
Thành Ý. Cụ Thành Ý quê từ Túy La qua cư trú tại Bất Nhị, là một trong “Ngũ
tử đăng khoa” (5 anh em trong một nhà có
3 người đỗ tú tài, 2 cử nhân). Cụ Nguyễn Thành Ý từng được vua Tự Đức cử làm
Tổng lãnh sự tại Sài Gòn - Gia Định”.
Nhà thờ Tộc Nguyễn Văn Đệ tứ phái
Ngay đầu cầu Vĩnh Điện, từ Đà Nẵng vào, hướng
về làng Bất Nhị, Bình Long (Điện Phước),
Phong Thử… khoảng hơn ba cây số. Qua tháp Chàm Bằng An, những căn nhà ngói ba
gian đồ sộ của Nghè Mai, Chánh Chước, đến làng tôi. Xóm Hạ-Nông-Dưới nghèo nàn.
Những nếp nhà tranh nép mình
bên lũy tre xanh, dọc con đường đất nhỏ.
bên lũy tre xanh, dọc con đường đất nhỏ.
Nhà ông Chanh có Lê Viết Hoàng (Nem) học cùng lớp. Nhà bà ba Ra. Vườn
ông Cửu Tưởng hiu quạnh, vắng bóng người. Bà Mày có Nguyên, nghèo nhất xóm. Bà
Tiếp có chị hai Tiếp, anh Xuyên, anh Đông. Nhà bà Nhì có anh Tam, Cật. Bà Mua
có anh Tám Dần, cùng tuổi với chú mười Thi. Chú Liếng có chị hai Liếng, chị Ba,
Bảy… Nhà chú ba Mậu. Bên kia, gần bờ đập,
ông Chánh Ba có chị Thông, anh Nga…
Ông bà nội mất. Bác Xứng lo hương khói,
kinh kệ chùa Hạ Nông. Bác Xứng có anh Tâm (Thuỳ),
anh Ngộ, anh Hiệp và mấy chị. Chú Dần có em Dần cùng tuổi (đã mất), Dân, Nhân, Giai…
Sau này chú Dần làm nhà gần ông ba Mậu. Đi học về, anh Ngộ, Dần và tôi,
cởi áo quần nhảy tỏm xuống “đàng nước”(mương
thuỷ lợi), nước trong veo. Chú Bề “mân-te”(đưa nước vào ruộng), ôm gọn áo quần đi thẳng. Anh Ngộ, Dần ngó theo
la í ới.
Xóm Hạ-Nông-Dưới khoảng mươi nóc nhà, có đến
bốn bà góa. Những người chồng đã hy sinh trong thời kỳ chống Pháp. Tây càn, ông
Nhì ôm súng leo lên cây đa. Ông ra đi khi bà Nhì chưa đến ba mươi. Rồi những
năm sáu ba, sáu bốn, thế hệ tiếp nối như
anh Đông, Dần, Cật, Bảy lần lượt vào du kích và hy sinh…
Khi tôi
sinh ra, ông bà nội đã mất. Bác tôi theo nghề ông nội. Bác giỏi chữ nho, bác dạy
tam tự kinh cho lũ trẻ chúng tôi.
“Nhân chi sơ, Tính bản thiện,
Tính tương cận, Tập tương
viễn.
Cẩu bất giáo, Tính nãi thiên,
Giáo chi đạo, Quí dĩ chuyên.”
Quê nội tôi yên ả thanh bình nhất, có lẽ
sau hiệp định Genève 1954 đến cuối năm 1960! Đúng là thái bình thật, không trộm
cắp, những đêm hè cửa thường bỏ ngõ. Tiếng hò khoan trong mùa cấy tháng tám,
tháng ba thoang thoảng theo làn gió bay xa. Ngày xưa, cái thiếu đói thời kỳ giáp hạt, là nỗi ám ảnh
trong lòng người dân quê tôi thường trực.
Rồi một ngày những người
không phải lính, nhưng mặc đồ màu đen mang súng, vào ở chung với dân làng…
“…Mùa
xuân năm 1962, chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành Quốc Sách Ấp Chiến Lược mục
tiêu căn bản là tách rời du kích, quân sự của Cộng Sản còn cài cắm ra khỏi nhân
dân nông thôn, không cho dựa vào nhân dân để xây dựng cơ sở hoạt động phá hoại,
cuối cùng là cô lập hoàn toàn phải ra hồi chánh hoặc bị tiêu dịêt…”
Nếu Quốc Sách này được tiếp tục và Ngô Đình Diệm không bị lật đổ, thì ngày
30.4.1975 có lẽ còn xa xăm…
Ngày xưa làm ruộng chỉ có hai mùa: tháng ba, tháng tám. Mẹ tôi
quảy gánh sang tận Đông Bàn (Gò Nổi),
La Thọ mua sắn, mua khoai, xắt lát phơi khô, độn cơm.
Những
buổi chiều tôi theo chú Mười (Thi) đi câu cá thát lát ở “giếng” Thủ Bộ. Gọi là “giếng” nhưng giống như hố bom, sâu khoảng
vài mét, đường kính hơn chục sải tay. Tôi lội dọc theo triền nước, xúc những
con “mày mày” (ấu trùng chuồn chuồn) cho chú câu…
Có những hôm chú Mười câu được mười mấy
con cá to, óng ánh như dát bạc. Mẹ làm chả cá thát lát, tuyệt cú mèo. Nấu canh với rau tần ô ngọt lịm.
Mùa
đông mưa phùn gió bấc, bàu súng – rất nhiều cây bông súng, hoa trắng viền tím
ngát - trắng xoá, nước mấp mé bờ đập thuỷ lợi. Ba tôi đặt lờ, cá rô, cá diếc,
cá tràu, thác lác, cá trê béo ngậy. Nướng trên lò than, chấm
nước mắm gừng hết chỗ chê! Nồi cơm đất nung thơm lừng với chén mắm cá nục, cá
cơm. Dằm vào ớt tỏi, ăn quên thôi, quên mất phần người lớn!
“Ông tha mà bà không tha/ Làm cho cái lụt
hăm ba tháng mười”. Nhưng lụt mang phù sa cho ruộng đồng phì nhiêu. Những
gánh phân chuồng, phân xanh đã làm đượm tình quê, qua hương thơm ngạt ngào của
hạt cơm lúa mới.
Lụt
lớn, lụt nhỏ nước chảy tràn đồng là những ngày hội hè của đám trẻ con, tất bật
chạy đi đơm cá. Những bát cá mại, cá cấn, đủ loại cá con, kho với lá gừng, lá
nghệ vàng ươm ngon hết biết, cơm không đủ ăn! Kể cũng lạ, đất khô nứt nẻ, nhưng
khi mưa xuống lại có cá, không biết từ đâu?
Gần Tết, từ đầu tháng Chạp, bác tôi đã cuốc
đất lên luống, gieo cải. Nhà nhà lo Tết. Mẹ chuẩn bị sẳn không thiếu thứ gì.
Đưa ông Táo về trời, mẹ nhờ chú ba Diện quảy gánh nếp đi bung. Nấu nước đường
làm bánh hộc, bánh khô, bánh in, mứt dừa, mứt gừng, mứt bí đao… Chiều ba mươi
quanh bếp lửa hồng, nồi bánh tét sôi sùng sục, tiếng heo bị làm thịt kêu eng
éc…
Đêm giao thừa pháo nổ vang khắp làng trên
xóm dưới, rồi chìm vào hư không. Tiếng chuông chùa ngân vang… Sự thiêng liêng
ngự trị trong lòng mỗi con người. Cầu mong mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an.
Quê
tôi, người dân bao đời vẫn sống chân chất, thanh lương. Miền trung đất hẹp,
gánh nặng hai đầu đất nước. Chỉ học theo gương người trước, cố dành khoa bảng,
phụng sự cho đời.
Ngũ Phụng Tề Phi có nghĩa là năm con phượng cùng bay lên là
danh hiệu do vua Tự Đức phong tặng cho năm vị đại khoa cùng đỗ
trong một khoa thi năm 1898, và
cùng thuộc tỉnh Quảng Nam, đó là
một điều hiếm có trong một tỉnh. Năm vị ấy là:
- Tiến sĩ Phạm Liệu (Trường Giang, huyện Điện Bàn)
- Tiến sĩ Phan Quang (Phúc Sơn, huyện Quế Sơn)
- Tiến sĩ Phạm Tuấn (Xuân Đài, huyện Điện Bàn)
- Phó bảng Ngô Lý còn gọi là Ngô Chuân (Cẩm
Sa, huyện Điện Bàn)
- Phó bảng Dương Hiển Tiến (Cẩm Lậu, huyện Điện Bàn)
Sau ngày ký Hiệp định Genève,
ba tôi đưa gia đình về quê: Hạ Nông dưới, Kỳ Ngọc (Điện Phước), Điện
Bàn. Cha làm căn nhà ngói to nhất làng, toàn là danh mộc, đúc bê-tông đầu tiên ở
quê. Nằm giữa chùa Hạ Nông và nhà bác tôi.
Tôi được khai tâm “trường” thầy Tư Khải. Gọi là trường,
nhưng chỉ có hai dãy bàn bằng gỗ mít. Học trò lèo tèo năm bảy đứa, cả gái lẫn
trai…
Mẹ mua mấy cuốn vở, bình mực, bút lá tre.
Mực viên hoà với nước, mực xanh, mực tím. Thầy dạy vỡ lòng, “a,b,c…a,ă,â… –
nhân chi sơ tính bổn thiện…” Thầy dạy Tam tự kinh lẫn tiếng Pháp. Anh Tâm (Thuỳ)
học lớp nhì, dạy thêm:“ Ma mère – Mẹ tôi, long – dài,
mue – mềm”. Tôi xung phong đọc cho thầy nghe, thầy quất mấy cây quắn
đít!
Đường làng trơn. Từ nhà đến trường ngang
qua vườn bà cửu Tưởng, không một bóng người, tôi sợ ma, sợ chó điên. Mẹ dạy phải
bấm ngón chân khỏi ngã. Đến sân nhà thầy, tôi nằm thẳng cẳng. Con gái thầy bắt
tôi cởi truồng, dội nước. Ngồi học không mặc quần.
Em Ngọc, tên Xí, bốn tuổi. Luỹ, đúng ra là
Lý, nhưng ông trời đặt tên! Khi làm khai sinh , thầy ký ở Hội An đánh máy thêm
chữ U xen giữa, đành sửa dấu sắc thành dấu ngã - Luỹ. Bà ngoại đặt tên tôi là
Lang, trùng âm với cô Lan (Phụng), cha không cho gọi tên Lang, đổi tên
Luân. Nhưng khi làm khai sinh, cha lại đặt tên Cúc – trùng với cô Cúc (Trước)!
Đến năm đệ tam, đổi tên Châu, cho đến bây
giờ. Bỡi vậy, đối với thầy cô và bạn bè từ cấp hai trở về trước, tôi là Cúc. Gần
năm mươi năm sau gặp lại, sao lại là Châu?
Có lẽ học ở quê không vừa lòng.
Cha dắt ra nhà ông bà ngoại, học trường ông thầy Già. Lũ học trò không thuộc
bài, bị quỳ xơ mít, đội tắp-lô, ăn roi mây. Năm lớp tư, cậu Bốn xin
qua trường Sào Nam của ông Thị Tý. Đi học về, ngang qua trường ông thầy Già, cả
lũ reo hò: “ Ông thầy Già ăn cứt gà đỏ đít! “ bị cậu Bốn bắt gặp,
tát cho mấy tai!
Đêm nằm nhớ mẹ khóc thút thít. Học xong lớp
ba, cha ra Đà Nẵng, thấy tôi đứng đứng nắm quai nôi, ru em Nga, em Nhàn (sinh
đôi). Cha tức tốc thu dọn sách vở, dắt ngay về quê.
Niên khoá 1960 – 1961, tôi học lớp nhì trường
Kỳ Ngọc (Điện Phước). Học
được mấy hôm, nghe lời xúi dục, trèo lên cửa sổ ê a:“ Em yêu cô giáo lớp ba, hàm răng trắng
nõn nước da đen sì…sì“. Thầy Trợ Lập, hiệu trưởng gọi lên văn phòng.
Chuyện đến tai cha. Lớp tôi đa số đi học bằng chân không. Không giày, không
dép. Tôi còn nhớ vài khuôn mặt: Đỗ Cả - có tài hát bội, Trần Văn Giám, Lê Minh
Tá, Nguyễn Thị Lành, Đinh Thị Tân, Trần Hoài Thanh, Nguyễn Văn Đạt (Ngộ), Nguyễn Văn Bảy (cao giò)…
Em Dần học sau một năm, trường thôn, gọi là
trường học Mới, cùng với em Ngọc. Bảy cao giò – con chú Liếng, lấy trộm truyện
thơ “Phạm Công Cúc Hoa, Trần Minh khố chuối…” cho tôi mượn. Tối về đọc
cho mẹ nghe, có chỗ mẹ khóc, tôi cũng khóc… Bảy (Sau đi du kích với Dần, hy
sinh 1972) đòi sách, Dần nói “mét”
mẹ nó. Nó sợ không dám đòi.
Năm
lớp nhất, tôi học thầy Phấn (Cha của Trần Kỳ Cung – nay ở Mỹ). Nhà
Thầy ở ngã ba Vĩnh Điện, đường xuống Hội An. Thầy cận thị nặng, mấy đứa rủ nhau
ngồi cuối lớp, thầy không thấy, ít dò bài. Vậy mà thầy cứ gọi tôi với Bảy cao
giò! Ngày đó còn thi tiểu học, ngoài thi viết còn phải thi vấn đáp, nhưng không
đứa nào hỏng cả.
Từ đây, như chim non rời tổ ấm. Một số
không đi học nữa, như anh Ngộ, Bảy ở nhà chăn trâu. Trần Văn Giám về Saigòn.
Hơn một nửa, sau này đi du kích, như Nguyễn Văn Diên, Nguyễn Văn Bảy…
Cuối năm lớp nhất, mẹ cho tiền mua sách và cặp, về khoe với cha là phần thưởng.
Chẳng may thầy Trợ Lập đến nhà chơi, bảo tôi học chẳng ra gì!
Ngày nước nhà thống nhất, chùa Hạ Nông chỉ còn nền gạch hoang phế,
ba cây da cổ thụ, cây xoài Miếu Bà không còn nữa. Cha mẹ tôi cũng đã khuất bóng
từ lâu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét