Trong làng không biết
ông nào hơn ông nào. Ông Chánh Hai chê Hương quản chỉ là chức mua, ra làng đứng
xớ rớ, đâu dám ngồi chiếu. Mấy cụ tiên chỉ ho một tiếng, là dạ dạ như hát bội.
Trên hết là Hương cả,
Hương chủ. Còn lại là Hương sư, Hương trưởng, Hương chánh, Hương giáo, Hương
quản, Hương bộ (hay Thủ bộ), Hương
thân, Xã trưởng hoặc Thôn trưởng, Hương hào.
Hương quản Hào chịu
trách nhiệm duy trì trật tự trị an, cùng với đám Hương thân, Hương hào. Hương
quản trực tiếp chỉ đạo Hương tuần, Cai tuần, Cai thị, Cai thôn, Trùm và Trương,
những người có quyền hạn như an ninh, cảnh sát.
Xóm trên có ông thầy Kinh. Thầy Kinh
tu tại gia, được mời đi cúng khắp làng, kiêm luôn thầy địa lý. Ông Cai Tổng
Thìn. Ông Lý Cát, ông Lê về hưu được thăng tòng bát phẩm, nên gọi ông Bát Lê.
Ông Cử Hoành được
trọng vọng nhất. Ông không ra làm quan, nại cớ cha mẹ già. Học trò ông có người
là ông Đốc, ông Tú, ông Nghè.
Cai tổng Thìn nhìn
quanh. Lác đác có mấy vị khăn đóng áo dài the đen, dù cặp nách vừa đến cổng
đình.
Lễ Kỳ yên năm nay được tổ chức ba ngày. Ngày lễ cũng là dịp cho các bà nấu xôi, làm bánh, chưng hoa quả. Nữ công gia chánh có dịp thi tài. Tiếng trống giục giã đã mầy hồi
Lễ Kỳ yên có nghĩa là lễ cầu an, tế thần Thành hoàng. Đình làng ở Nam bộ mỗi năm có 2 lệ cúng: Thượng Điền (bắt đầu mùa vụ mới) và Hạ Điền (khi thu hoạch xong), Kỳ Yên có thể gộp chung với Thượng Điền hoặc Hạ Điền, cũng có thể một lễ riêng biệt tùy theo từng địa phương. Năm nay mùa màng thất bát, các cụ kết hợp lễ Kỳ yên với Hạ điền. Cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.
Lễ Kỳ yên năm nay được tổ chức ba ngày. Ngày lễ cũng là dịp cho các bà nấu xôi, làm bánh, chưng hoa quả. Nữ công gia chánh có dịp thi tài. Tiếng trống giục giã đã mầy hồi
Lễ Kỳ yên có nghĩa là lễ cầu an, tế thần Thành hoàng. Đình làng ở Nam bộ mỗi năm có 2 lệ cúng: Thượng Điền (bắt đầu mùa vụ mới) và Hạ Điền (khi thu hoạch xong), Kỳ Yên có thể gộp chung với Thượng Điền hoặc Hạ Điền, cũng có thể một lễ riêng biệt tùy theo từng địa phương. Năm nay mùa màng thất bát, các cụ kết hợp lễ Kỳ yên với Hạ điền. Cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.
Chánh tế là cụ Cử
Hoành, phụ tế có ông Bát Lê và Cai tổng Thìn. Bỗng ngoài cổng xôn xao. Ông Nghè
Tân thong thả bước vào cúi đầu, khoanh tay chào các cụ. Ông Nghè Tân được bổ
nhiệm làm đốc học. Quan đốc học có hàm chánh ngũ phẩm. Cao hơn quan phủ, quan
huyện chỉ có hàm lục phẩm.
Quay sang ông Cử Hoành, ông Nghè Tân:“-
Thưa thầy, con luôn kính nhớ đến thầy. Có lẽ con sắp xa thầy, ra kinh sư”.
Ông cử Hoành vuốt
chòm râu bạc, cười rạng rỡ. Đỉnh vinh hoa thấp thoáng. Nguyện cầu anh linh tổ
tông độ trì, cho phượng hoàng tung cánh bay cao, bay xa.
Ba hồi trống vang dội, khai trương
mùa lễ hội. Lời văn tế nghiêm cẩn, dâng lòng thành của dân làng đến Thành Hoàng
bổn xứ. Bóng mát từ cây đa trước sân đình tỏa rộng, như chở che và trao niềm an
lạc.
Bỗng Hương Hào: Quới làng! quới làng! Bà con chộn rộn,
ngơ ngác làm kinh động đến sự thiêng liêng, khi đang hành lễ. “ Con hai Môn té giếng!”. Giếng sâu mấy
chục sải tay, thằng nhỏ chắc chết! Hai Môn đứng bật dậy như lò xo. Giếng cách
cổng đình hơn trăm mét. Lòng giếng xây bằng đá tổ ong xanh rêu, cây dương xỉ
bám quanh tự lâu đời.
Ông Cử Hoành thở dài.
Lòng thành ta cầu an, nhưng Thành Hoàng cũng báo cho điềm xấu. Rồi đây nhân tâm
ly tán. Ông nhìn trời. Trời trong xanh không gợn chút mây, nhưng phương đông
ửng lên vầng ráng đỏ, báo hiệu thiên tai hạn hán. Nạn đói sẽ hoành hành nơi
làng quê quạnh quẽ này thôi.
Nghè Tân không ra
kinh sư. Ông Nghè giũ áo từ quan, đi làm quốc sự. Ông đã theo cụ Hường. Phong
trào Cần Vương như lửa cháy, nhiệt huyết yêu nước như vết dầu loang. Sĩ phu từ
bắc tới nam hừng hực lòng ái quốc dâng trào, cao như ngọn sóng.
Vậy mà cả đàm chức
sắc Hương hội cứ “một miếng giữa làng,
bằng một sàng xó bếp”. Hương quản Hào nghênh ngang dọa nạt. Sưu cao thuế
nặng bà con không có để nộp, hắn bắt gà, bắt vịt. Thậm chí chộp luôn mấy con
heo sữa. Hắn phạt vạ. Sưu thuế vẫn hoàn sưu thuế.
Con hai Môn chết
thật! Tuổi mười ba như con nhái bén, như con chàng hiu. Nhảy một phát không
biết đến đâu, vẫn cứ nhảy. Hai Môn bó chiếu, lèo tèo mấy người vác cuốc theo
sau. Hai Môn là dân ngụ cư, đâu có hộ khẩu, thuế thân còn nợ. Ai thương?
Ông Cử Hoành nghe học
trò mình theo chí cụ Hường Hiệu. Lòng phơi phới, không thẹn với đất trời. Môn
sinh theo đạo lý, nghĩa là giúp mang nghĩa cả của thầy. Ông Cử Hoành hứng chí
ngâm nga:
“Trượng phu sinh bất năng phi can chiết
hạm, vị thế phù cương thường.
Tiêu dao tứ hải, hồ vị hồ thử hương.
Hồi đầu nam vọng mạc vô cực hề, thiên vân nhất sắc đồ thương thương.
Lập công bất thành, học bất tựu, thiếu tráng hữu cơ thần hề, toạ thị bách niên thân thế khu âm dương.
…….
Thiên địa vũ trụ hỗn tương vong, dư bất tuý hĩ, dư hành dư chí.
Nam nhi tự cổ sự tang bồng, hà tất cùng sầu khấp phần tử.
Tiêu dao tứ hải, hồ vị hồ thử hương.
Hồi đầu nam vọng mạc vô cực hề, thiên vân nhất sắc đồ thương thương.
Lập công bất thành, học bất tựu, thiếu tráng hữu cơ thần hề, toạ thị bách niên thân thế khu âm dương.
…….
Thiên địa vũ trụ hỗn tương vong, dư bất tuý hĩ, dư hành dư chí.
Nam nhi tự cổ sự tang bồng, hà tất cùng sầu khấp phần tử.
Dịch nghĩa:
Kẻ trượng phu sống mà không vạch gan, bẻ
cật lo giềng mối cho đời
Rong chơi bốn biển, quê hương ở nơi đâu?
Quay đầu trông về nam, mit mù vậy hỉ! Trời mây nối màu xanh ngắt
Lập công chẳng được, học không xong, trai trẻ có bao lâu, ngồi ngó trăm năm, thân đuổi cuộc sớm chiều
……
Trời đất dọc ngang đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm
Từ xưa nam nhi đuổi theo tang bồng, cớ gì sùi sụt sầu cố hương”(1)
Rong chơi bốn biển, quê hương ở nơi đâu?
Quay đầu trông về nam, mit mù vậy hỉ! Trời mây nối màu xanh ngắt
Lập công chẳng được, học không xong, trai trẻ có bao lâu, ngồi ngó trăm năm, thân đuổi cuộc sớm chiều
……
Trời đất dọc ngang đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm
Từ xưa nam nhi đuổi theo tang bồng, cớ gì sùi sụt sầu cố hương”(1)
Nhưng trời đã phụ
lòng người. Trong thế cùng lực tận. Ông Nghè Tân cho quân binh theo mình rã
ngũ. Tự lo thân, thoát khỏi chốn nguy nan.
Nhìn mây trời u ám
trên dãy Ngọc Linh chạy dài, băng qua rừng Trà My xanh ngát, đượm nồng hương
quế. Ông Nghè Tân sửa lại tư thế, trịnh trọng quỳ xuống, mặt hướng về phương
bắc ngậm ngùi:
“Sửa mũ áo lạy về Bắc khuyết, đuốc quang
minh hun mát tấm trung can;
Chỉ non sông giã với cô thành, chén tân khổ nhấp ngon mùi chính khí”(2)
Ông buông mình xuống vực sâu thăm thẳm. Tiếng vượn hú thê lương tiễn biệt tấm lòng son. Nghĩa khí kẻ sĩ trong thời tao loạn, đã thành thần. Rừng thiêng vang vọng nỗi u hoài, sinh bất phùng thời.
Chỉ non sông giã với cô thành, chén tân khổ nhấp ngon mùi chính khí”(2)
Ông buông mình xuống vực sâu thăm thẳm. Tiếng vượn hú thê lương tiễn biệt tấm lòng son. Nghĩa khí kẻ sĩ trong thời tao loạn, đã thành thần. Rừng thiêng vang vọng nỗi u hoài, sinh bất phùng thời.
Hội đồng Hương chức
nhóm họp kỳ này nghe có vẻ nghiêm trọng. Ngoài đương chức, còn mời hết các vị
thân hào nhân sĩ nữa. Ông Chánh Hai, ông Thầy Kinh, ông Lý Cát, ông Bát Lê...
Ông Cử Hoành từ khi
được tin ông Nghè Tân tuần tiết, sinh bệnh. Mắt gần như mù hẵn, nằm nhà đắp
chiếu, không còn ham bàn chuyện thế sự.
Đám hương chức ngán
nhất mấy ông quan đã về hưu, nhiễu sự. Ông Lý Cát mặt đỏ ké. Mặt trời sắp xuống
núi còn tươi hơn mặt ông, sực nức mùi rượu. Lão Lý lấm lét, không dám nhìn
thẳng, cứ e hèm e hèm. Ông Chánh Hai lấy ống điếu gõ gõ lên vai Thầy Kinh, mắt
nháy nháy về hướng Lý Cát.
Nội dung chung qui
cũng là trật tự trị an. Thuế điền thổ, thuế thân, thuế lao dịch, thuế rượu,
thuế muối… Không nghe nói gì về dân sinh, dân trí, dân quyền. Quy kết những người
theo phong trào Cần Vương chống Pháp là giặc.
Ông Bát Lê vốn nho
nhã, ít nói. Bỗng dưng đứng lên chỉ tay vào bọn hương chức: “Cướp đêm là giặc, cướp ngày là các ông. Dân
tình khốn khổ, các ông tróc nả không còn cái khố. Tiếp tay cho chúng nó gom góp
tài nguyên, tơ lụa, quế hồi. Mỏ vàng Bông Miêu rỉ nước đen ngòm, là xương là
thịt dân làm phu làng này, các ông biết không, hả?”
Sân đình chộn rộn, có
người nép mình tránh né. Lão Lý Cát hết say, mắt nhìn lơ láo. Ông Chánh Hai cúi
đầu, Thầy Kinh luôn miệng niệm Phật.
Nói xong, ông Bát Lê phủi đít ra về.
Hương quản Hào không dám hó hé. Dầu sao ông Bát Lê cũng là quan to, chức trọng
về hưu. Đã một đời phụng sự cho nước cho non.
(1)
NAM PHƯƠNG CA KHÚC - Bản chữ Hán do Nguyễn Bá Trác đăng
trên Nam Phong tạp chí, do Phạm Hoàng Quân cung cấp cùng bản dịch nghĩa trên
báo Tuổi trẻ.
(2) Văn tế Phò mã Chưởng hậu quân Võ Tánh và Lễ bộ thượng thư Ngô Tòng Chu do
Đặng Đức Siêu soạn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét