Ông
Ba chở vợ đi chợ. Chợ vùng ven tràn ra lề đường, nhất là sau năm giờ chiều. Bà
Ba xuống xe xách giỏ đi te te, mắt dáo dác tìm mua chân giò, đuôi heo, bắp
chuối vừa trổ bông, tức là chưa ra quày chuối. Nghe nói đàn ông ăn món này chống
trầm cảm, thiếu máu, giảm lượng đường huyết, loại bỏ các tổn
thương oxy hóa dẫn đến bệnh ung thư và bệnh tim, tăng nguồn cung cấp sữa mẹ. Ăn bắp chuối hằng ngày, ngăn ngừa các rối loạn
thần kinh như bệnh Parkinson và Alzheimer…
Bà Ba làm món này bồi dưỡng cho ông Ba và con dâu. Cả ngày ổng chẳng nói
gì, hay cáu ghét, nói trước quên sau. Không bị trầm cảm là gì? Không mất trí là gì? Con dâu thiếu sữa, bà đã mua đu đủ
ương nấu với cá chép hoặc cá lóc, đến rau lang xào thịt heo nạc vẫn không đủ
sữa cho cháu nội bà.
Bà Ba tốt
nghiệp lớp điều dưỡng y tế công cộng
ba năm, tại Viện Quốc gia y tế công cộng Saigon. Cũng do nghiệp dĩ, bà chăm sóc
sức khoẻ mọi người trong nhà như ở bệnh viện. Bà định đoạt, chọn lựa mọi nguồn
dinh dưỡng. Phòng ăn treo tấm bảng đen, ghi rõ thực đơn hằng ngày. Nhiều khi
ông Ba còm ròm nhưng không hiệu quả, thôi đành cố ăn cho vui lòng bà. Đôi lúc
ông Ba và lũ trẻ thèm ăn xôi, ăn phở cũng do nhu cầu cơ thể, cha con ông chờ bà
ra khỏi nhà, là ăn vụng. Thi nhau húp xì xụp, hít hà.
Ông Ba, từ ngày về hưu, không còn hăng hái,
hoạt bát như xưa. Ông vùi đầu trong thư phòng đọc sách. Báo chí và các chương
trình trên TV không hấp dẫn ông. Đám bạn ông vắng dần vì đôi mắt kém thân thiện
của bà. Không rượu, không chè, không nhảy nhót, ông chịu được. Nhưng không bạn
bè ông như chết hẳn. Bà khuyến khích ông vào hội người cao tuổi, hội hưu trí,
nhưng đâu phải ai cũng là bạn? Ông thử giao tiếp vài lần, nhưng không hợp. Kẻ
thì vênh vênh váo váo, đeo huy chương đi tập thể dục. Kẻ thì nói chuyện trên
trời, chê bai lớp trẻ không ra gì. Toàn khoe khoang cái thời đương chức, đương
quyền…
Ông ngắm nhìn những người buôn gánh bán bưng,
mồ hôi chảy dài xuống cổ, chảy theo sống lưng. Ông rơm rớm nước mắt khi thấy cô
thiếu nữ, nhỏ hơn con ông, gò lưng đạp xe, kéo theo xe ba gác, đủ các loại rau,
bí, khổ qua, bầu, đậu rồng... Ông định bước tới mua quả bí, sực nhớ chở vợ đi
chợ, nên thôi.
Mỗi ngày qua đi, đường mỗi xa thêm. Ông Ba
thở dài. Vài năm trước đây, lúc rảnh rỗi ông lấy xe đến nhà ông Phan, ông Tú -
bạn ông. Lai rai vài ba xị, hàn huyên đủ chuyện trên đời. Lúc đưa cháu ra công
viên, cho nó chơi đu quay, cầu tuột. Phần ông ngồi nhìn quanh, hưởng không khí
vui nhộn trẻ thơ, đọc báo, hay nhìn những đôi tình nhân, nhàn nhã tâm tình.
Tuổi đời làm ông lười hẳn. Thích nằm, ngủ
sớm. Dậy sớm lọ mọ pha bình trà, ly cà phê, nhâm nhi, mà đầu óc trống rỗng. Mới
đây thôi, ông đâu có lù rù như bây giờ. Bà Ba chê ông chậm chạp, hết thời hoạt
bát. Bà nói : Biết vậy tôi đâu có lấy ông!
Bà nói đùa vậy thôi, chứ bà chăm sóc ông nhiều hơn.
Bà nghe ai nói cây lá gì hay, thuốc gì bổ
dưỡng, bà mua về phân ra từng gói nhỏ, ghi sáng trưa chiều tối, ép ông uống. Vậy
mà ông quên hoài. Bà nhắc ông ăn sáng, đi tắm, lau mặt cho ông, làm ông như còn nhỏ dại. Đứa con gái đùa, Ba sướng hơn cu Bi – con nó.
Ông Ba - một thời lẫy lừng, xông pha trận
mạc. Đám lính dưới quyền kính trọng và thương yêu ông. Ông xem họ như anh em,
con cháu mình, chia ngọt sẻ bùi. Ông không có số sát quân.
Rồi ông chuyển ngành đi làm kinh tế, gầy dựng
biết bao cơ ngơi, tác hợp biết bao nhiêu đôi lứa. Họ xem ông như bố nuôi của
mình. Giổ tết nào, kể từ ngày ông về hưu, cũng nườm nượp xe cộ về thăm. Ông
quan niệm, làm quan nhất thời, làm dân vạn đại.
Người ta nói tuổi già sống với ký ức. Ký ức
ở trong tâm hồn, tâm hồn ông ngổn ngang hoài niệm. Những người đồng đội cũ, chập
chờn hiện về, trong những đêm mất ngủ. Những người lính già sống trong cô quạnh,
họ bị lãng quên như lật một trang sách. Họ không bị lãng quên hẳn, nhưng chỉ được
nhắc đến để làm màu trong lễ hội.
Cũng như ông, còn sống, thỉnh thoảng mọi
người nhớ đến. Đối với ông, không phải là sự sẻ chia. Nhưng nghĩa tình chân
thành làm ông rơi nước mắt. Một gói trà nhỏ ướp sen tự làm, gói cà phê tự rang
của những người thương binh đồng đội, làm ông cảm khái, nghẹn ngào.
Những trang đầu cuốn sách có ý nghĩ riêng của
nó. Số phận con người thời chiến khác thời bình. Cung tên, yên ngựa đã qua thời
lửa đạn, cũng đến hồi ngủ yên. Đôi lúc ông cau có với bà Ba, một cách kỳ cục,
vì ông cảm thấy mình vô dụng.
Ông thường nói với bà, tôi sẽ chăm sóc bà
những ngày cuối đời. Vậy mà ông bất lực. Ông ân hận ngày còn son trẻ, ông lơ là
với bà. Đôi lúc ông không nhớ mình đã có gia đình, vợ con. Ông bị cuốn theo cơn
lốc của thời cuộc. Ông như con kiến bò quanh lòng chảo.
Hôm nay đã
qua rằm tháng Chạp rồi, ông định lên nghĩa trang, thắp hương cho những người
đồng đội, như mọi năm. Nhưng ông cảm thấy đường đi xa ngái. Mỗi ngày qua đi,
đường mỗi xa thêm. Nhưng nghĩa trang và đồng đội sắp gần.
Những buổi chiều ông lang thang qua sân
đình, cây đa già hàng trăm năm tuổi, cổng làng phủ kín rêu phong. Ông thở dài,
chúng sẽ biến mất không tăm hơi và sẽ được phủ lên những toà nhà tráng lệ,
những con đường nhựa mượt mà của khu đô thị mới. Đồng ruộng xanh ngát hương lúa
mới, đàn trâu thảnh thơi gặm cỏ, đàn cò bay lả bay la về mỗi chiều muộn, sẽ chỉ
còn là chuyện của ngày xưa.
“- Này,
ông già đi chỗ khác!” Tiếng quát oai vệ của anh dân quân, làm ông giật thót
mình. Ông định thanh minh, nhưng thôi. Đám người mặt lạnh tanh, giật đôi gánh
bà bán đậu hủ, mấy rổ cá hấp, vất đại lên xe. Cả dãy bán hoa quả, gà vịt, nhang
đèn nhốn nháo, thu gọn, kéo lê như chạy giặc. Ông Ba nhìn quanh, nghe lòng trĩu
nặng, không thốt nên lời.
Ông giật mình lần nữa, khi nghe bà Ba la
lên: “- Ông làm gì đứng như trời trồng!
Tôi réo không nghe, ông lãng trí quá rồi, về!”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét