Ông
nội tôi là thầy đồ. Con đông, cha tôi thứ bảy.
Cha sinh
năm 1918 (Mậu Ngọ), nhưng khai sinh
ghi 1916.
Trước năm 1939, người ta nhìn thấy những tấm
áp-phích:"Mẫu quốc đang gặp nguy. Nghĩa vụ của bạn là giúp đỡ mẫu quốc”.
Cha tôi tình nguyện đi “tây” thay bác tôi,
đã có gia đình. Mỗi nhà ít nhất, phải một người đi. Trước ngày lên đường, ông
tôi đem trầu cau hỏi vợ cho cha. Mong sự ràng buộc này, cha tôi sẽ trở về. Dù cha
chưa biết mặt người hôn thê của mình.
Làng tôi thuần nông, lúc đó rất nghèo. Chỉ
có bác, chú mười và cha tôi học được chữ nho từ ông nội. Các cô không ai biết
chữ...
“Năm 1939,
nước Pháp đã đưa 20.000 người từ thuộc địa Đông Dương sang Pháp để làm những
công việc cực nhọc, như trộn thuốc súng. Phần lớn họ bị tuyển mộ cưỡng bức.
Tàu cập bến
Marseille, họ bị đưa vào nhà tù Baumettes, rồi được phân bổ đi khắp nước Pháp,
đến những xí nghiệp thuộc ngành quốc phòng và được gọi là “lính thợ không
chuyên” – ONS (Ouvriers
Non Spécialisés)
Có người bị sung
vào lính chiến đấu ở Pháp, đánh nhau với quân Đức. Từ năm 1946, họ được đưa trở về Việt
Nam một cách nhỏ giọt và mãi đến năm 1952, những người cuối cùng mới được trở về
tổ quốc. Khi đó, cũng có khoảng một nghìn người đã chọn định cư tại Pháp”(1)
Cha
tôi làm lính thợ. Trong một lần nhà máy bị ném bom, cha tôi bị thương, mảnh đạn
xuyên qua phổi. Bệnh viện Marseille đã cứu cha
tôi, nhưng sau này để lại di chứng nặng nề, khi trái gió trở trời.
Ở quê nhà, mỗi tháng nội tôi được lãnh tiền.
Nhận được tiền, ai không mừng. Nhưng ông bà tôi yên lòng, vì cha tôi còn sống.
Đệ nhị thế chiến (1939-1945) kết thúc, cha tôi sống cuộc đời lưu vong, không được hồi
hương. Cha tôi học nghề sửa đồng hồ và hành nghề lưu động. Tôi mường tượng trên
con đường hoa lệ của kinh đô ánh sáng Paris, một người da vàng thuộc địa là cha
tôi, đang lang thang với chiếc thùng gỗ “sửa
đồng hồ”. Tôi ứa nước mắt.
Mãi đến 1948. Chuyến tàu buôn của Pháp cập
bến sông Hàn. Cha tôi trở về với thân hình tiều tuỵ. Nhưng cha không thể về
thăm ông bà tôi. Những người nông dân hiền lành, chất phác quê tôi, đã được
trang bị căm hờn. Nhất là đối với những gia đình, có người làm tay sai cho thực
dân, đế quốc.
Cha nhắn cô Lan ra Đà Nẵng. Cô đi từ lúc gà
chưa gáy sáng, đôi chân trần vượt hơn hai mươi cây số. Đã mười năm qua, anh em
mới có dịp trùng phùng. Cô ôm cha tôi khóc ngất.
Lần đầu tiên trong đời, cô thấy cây lụa
Lãnh Mỹ A. (Lụa được dệt từ tơ tằm hảo hạng, nhuộm đi nhuộm lại
hàng trăm lần nhựa trái mặc nưa, trong suốt gần nửa năm trời. Lụa trơn, đen
láng, mặc vào người như được vuốt ve
trên da thịt. Mùa hè mát rượi, mùa đông ấm áp. Càng mặc, càng giặt, càng đen
huyền). Lụa Vạn Phúc, Hà Đông. Vải sợi bông, vải tơ tằm…Cha nhìn cô Lan, áo quần
vải tám thâm đen, ống quần cao hơn mắt cá. Hai anh em nước mắt dâng tràn.
Cô gánh oằn vai, món quà quá xa xỉ đối với
nhà nội tôi.
Ông nội chưa kịp mặc quần áo mới. Ông mất.
Cha tôi băng đồng, chạy bộ. Trăng lên đến đỉnh đầu, cha về lại mái nhà xưa. Bà
nội mắt đã mờ, không nhìn rõ mặt cha tôi, sờ đầu sờ cổ, hết khóc lại cười. Đám
tang nội tôi to nhất làng. Cúng tế linh đình hơn ba ngày trời.
Bạn chăn trâu với cha tôi, nay là cán bộ
Việt Minh. Không ai thù hằn, không ai bắt bớ cha tôi.
An dưỡng ít lâu, cha tôi gặp mẹ tôi. Bà đã
có một đời chồng, chồng theo Việt Minh, bị tây bắn chết. Người đàn bà nội tôi
đi hỏi cho cha ngày xưa, nay không biết lưu lạc phương nào.
Cha mua đất cất
nhà. Láng giềng của ngoại. Mẹ theo ghe bầu của ngoại ngược xuôi theo dòng sông
Hàn vào tận Phan Thiết, Saigon. Lâm thổ sản: tơ lụa Duy Xuyên, quế rừng Trà My,
mật ong, vỏ cây chay (ăn trầu) được đổi
trao với hàng hoá phương Nam.
Ngày cha thành hôn với mẹ. Không họ hàng bên nội. Ông ngoại chỉ cần tính
cần cù và tấm lòng của cha tôi làm sính lễ.
Cha tôi không biết tiêu tiền. Ông chắt chiu từng đồng xu nhỏ. Nhưng ông
tiêu tiền cho người khác.
Mẹ tôi có nhiều áo dài, thời trang lúc bấy giờ. Cha tôi chỉ có một
bộ veston và đôi giày từ thời bên Pháp, mang về. Những gì tốt nhất, dành
cho mẹ tôi.
Mỗi cuối tháng, cha ra ngân khố lãnh tiền trợ cấp từ chính phủ Pháp. Các
dì gọi cha tôi: Anh Bảy “kiều bào”.
Mẹ tôi hãnh diện lắm. Mỗi lần có tiền, mẹ tôi chi xài thoải mái và hào phóng
như “Tây”. Cha tôi chỉ nói:”- Đàn ông như cái nhà, đàn bà như cái cửa”,
vậy thôi.
Năm 1949, cha tôi được điều động làm cai “lục lộ”(quản lý đường sá) ở Mỹ Chánh, Quảng Trị. Chị An, con riêng của mẹ, được hai tuổi, chị mất. Tôi được hoài thai.
Cha đưa mẹ ra Huế, tiện bề chăm sóc và an ủi.
Mùa đông năm ấy rét đậm. Cha ho dữ dội, bệnh
phổi tái phát. Cha đưa mẹ về Đà Nẵng, rồi theo tàu lữa vào Saigon, bệnh viện
Grall. Qua tết Canh Dần (1950), cha tôi vẫn chưa về. Tôi
ra đời tại “nhà thương” Bà Quế.
Cha được chuyển sang Pháp. Ông
bị lao phổi nặng, điều trị ở bệnh viện Saint Hilaire du Touvet, Grenoble. Thời
đó bệnh lao phổi chưa có thuốc chữa trị như ngày nay. Các bác sĩ Pháp nơi ông điều trị, chẩn đoán ông không thể sống
hơn một năm.
Trong thời gian nghỉ dưỡng bệnh ở Pháp,
ông tình cờ biết được phương pháp thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện:
“ Thót bụng thở ra
Phình bụng thở vào
Hai vai bất động
Chân tay thả lỏng
Êm chậm sâu đều
Tập trung theo dõi
Luồng ra luồng vào
Bình thường qua mũi
Khi gấp qua mồm
Đứng ngồi hay nằm
Ở đâu cũng được “
Phình bụng thở vào
Hai vai bất động
Chân tay thả lỏng
Êm chậm sâu đều
Tập trung theo dõi
Luồng ra luồng vào
Bình thường qua mũi
Khi gấp qua mồm
Đứng ngồi hay nằm
Ở đâu cũng được “
Nhưng đã hơn một năm, cha tôi không chết.
Lần này ông được chính phủ Pháp cho về bằng máy bay của nãng hàng không Air
France. Cha tôi đã khoẻ mạnh hơn xưa.
Quê hương tôi không bình yên.
“Tại miền trung, Việt Minh kiểm soát từ Hội An đến Mũi
Đại Lãnh, gần như ngăn đôi đất nước. Người Pháp
chưa bao giờ tỏ ra muốn "giải
thoát" cho thuộc địa cũ.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945,Việt Minh cướp
chính quyền.
Bảo Đại đọc Tuyên
ngôn Thoái vị trước cửa Ngọ Môn, Huế.
Ngày 8
tháng 3 năm 1949, Tổng
thống Pháp Vincent
Auriol và Cựu hoàng Bảo
Đại đã ký Hiệp
ước Elysée, thành lập Quốc gia Việt Nam, hội viên trong khối Liên
hiệp Pháp đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại.
Đầu năm 1950, Hoa Kỳ bắt đầu chính thức gửi viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông
Dương.
Mỹ tuyên bố "ủng hộ nguyện vọng độc
lập dân tộc tại Đông Nam Á" trong đó có Việt Nam, nhưng với điều kiện
"lãnh đạo của những nhà nước mới không phải là người cộng sản".(2)
Người dân quê tôi như kiến bò quanh
lòng chảo, không biết lửa đốt nóng lúc nào. Đất nước ngả nghiêng, trầm mình
mang thân phận nhược tiểu đớn đau.
Cuối năm 1951, chú
Chín tôi cõng bà nội tránh càn của Tây. Chạy vừa đến gốc đa, chưa kịp xuống hầm
đã bị bắn chết. Bà tôi già và mù nên được tha. Cha từ Quảng Trị hay tin, về đến
nhà, bà tôi cũng đã mất trước đó.
Cha tôi cũng là con
kiến. Lòng dân đất nước tôi không còn đồng lòng như loài kiến, loài ong. Sự
phân hoá thê thảm, thù nghịch bởi những luận điệu ghê tởm đã len lỏi vào sự cả
tin của đồng bào tôi, từ nhiều nguồn, nhiều hướng.
Cha tôi mắt trừng trừng,
phẫn uất. Sự hoang mang, chông chênh phận người, lênh đênh giữa dòng sông nước
xoáy. Hai bờ mờ mịt mù sương.
Ngóng trông về quê
nhà tan hoang lửa khói. Các cô tôi chưa chồng di cư ra thành phố ở với mẹ tôi.
Chú Mười và các dượng (chồng cô) theo
Việt Minh làm du kích. Bác tôi nối nghiệp ông nội làm thầy địa lý, tụng kinh
cầu siêu cho những vong hồn bất đắc kỳ tử.
Mùa thu năm 1953. Khi
tu bổ đường quốc lộ từ Quảng Trị vào Huế, cha tôi bị mìn, cưa mất một chân. Cả
nhà ngoại tôi an ủi: Vậy cũng còn may.
Hội nghị Genève khai
mạc ngày 26 tháng 4 năm 1954 để bàn về vấn đề khôi phục
hoà bình ở Đông Dương. Nhưng đau lòng vì chia đôi đất nước.
Tại
miền nam, Ngô Đình Diệm truất phế Bảo Đại. “Ngô
Đình Diệm là một nhân vật gây nhiều tranh cãi trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Một số sử gia coi ông chỉ là công cụ chính trị trong
tay người Mỹ, trong khi đó một số sử gia khác coi ông là nhà chính trị độc lập
mang nặng truyền thống phong kiến Việt Nam. Một số nghiên cứu gần đây còn cho
biết rằng Ngô Đình Diệm là người tự cho mình đang gánh vác một "Sứ mệnh từ
thiên đàng" (Mandate of Heaven)
và ông có viễn kiến riêng về hướng phát triển của miền Nam Việt Nam” (3)
Bác tôi bỏ vợ con,
tập kết ra bắc. Gia đình chú mười bị tố “cộng
sản nằm vùng”. Cha tôi được chính phủ Việt Nam Cộng Hoà mời tham gia “thân hào nhân sĩ” tại địa phương. Nhờ
đó, gia đình bác tôi, chú Mười được an thân.
Quê nội tôi yên ả nhất, có lẽ từ sau hiệp
định Genève 1954 đến cuối năm 1960! Đúng là thái bình thật, không trộm cắp, cửa
thường bỏ ngõ trong những đêm hè. Tiếng hò khoan trong mùa cấy tháng tám, tháng
ba thoang thoảng theo làn gió bay xa.
Rồi một ngày những người không phải
lính, nhưng mặc đồ màu đen mang súng, vào ở chung với dân làng…
“…Mùa xuân năm 1962,
chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành Quốc Sách Ấp Chiến Lược mục tiêu căn bản là
tách rời du kích, quân sự của Cộng Sản còn cài cắm ra khỏi nhân dân nông thôn,
không cho dựa vào nhân dân để xây dựng cơ sở hoạt động phá hoại, cuối cùng là cô
lập hoàn toàn phải ra hồi chánh hoặc bị tiêu dịêt…”(3)
Mùa hè lại về, cái nắng như thiêu như đốt,
kèm theo gió hạ Lào khô khốc thịt da.
Xóm Nga Tiền khoảng mươi nóc nhà, có đến bốn
bà góa. Những người chồng đã hy sinh hoặc bị bắn chết như chú chín tôi trong thời
kỳ chống Pháp. Tây càn, ông Nhì ôm súng leo lên cây đa. Ông ra đi khi bà Nhì
chưa đến ba mươi. Rồi những năm sáu ba, sáu bốn, thế hệ tiếp nối như anh Đông, Dần, Cật, Bảy lần
lượt vào du kích và hy sinh khi chưa đủ lớn.
Tôi là ai? Lịch sử đất nước tôi bị quay
vòng trở lại, như ngày cha tôi bị cưỡng bức lên tàu sang Pháp làm cu-li cho mẫu
quốc, hay bỏ xác nơi hoang địa xứ người. Hai mươi năm tương tàn, cũng đủ cho thế
hệ chúng tôi, trở về nơi xuất phát của cha tôi.
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét