Xóm tôi có ông Hai
Ngàn. Tên vậy, chớ ông xài tiền trăm. Ông sinh ra ở đây. Đất nền xóm này từ
hương hỏa nhà ông mà có. Ông tự quy hoạch, bán dần từ ngoài vào trong.
Vườn nhà ông còn non năm công đất, cây trái xum xuê bao bọc căn nhà ngói ba
gian, lợp ngói âm dương giống mái đình, đậm màu rêu phong cũ rích.
Sau vườn có miếu thờ, nghe nói linh
thiêng lắm. Mắt tượng Thần sáng quắc, hai răng nanh nhọn hoắt, mặt đỏ lòm. Nửa
giống Quan Công, nửa giống Thiên Lôi. Tay phải cầm đao, giống cây Thanh Long của Quan Công, tay
trái cầm búa.
Cứ đúng
ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch hay còn gọi là tết Đoan Ngọ, tết diệt sâu bọ, ông
cúng tế linh đình. Xôi chè, thịt, bánh biếu cả xóm. Tóc ông búi tó, ông thường
mặc bộ bà ba trắng, đôi guốc chạm lốc cốc trên nền gạch. Ông thành tâm khấn
vái.
Xong ba
tuần hương, ông Hai Ngàn rút cây đao múa may điệu nghệ, tiếng gió vù vù, loang
loáng ánh bạc, nghe lạnh nổi da gà. Quỉ ma, cô hồn tái mặt.
Sau hai tuần hương nữa, ông lấy cây búa gõ lên đầu đám
tượng sành, mũ áo cân đai xênh xang, nghe lốp bốp, rổn rảng. Tan tành một đống,
chìa ra những mảnh vỡ sắc nhọn.
Ông Hai Ngàn không có vẻ gì thấm mệt. Ông vén tay áo, lấy
cây bút lông viết đại tự, trông như ngọn giáo, vừa múa vừa đâm nát những tàu lá
chuôi phất phơ. Hình như ông đang đâm mấy thằng gian. Quả thật bút chẳng tà.
Nghe đâu, ông nội Hai Ngàn là môn sinh cụ Đồ Chiểu, từ Ba
Tri, Bến Tre lưu lạc đến nơi này.
Xóm
tôi thuộc vùng ven thành phố. Ngày xưa nơi này ruộng vườn bát ngát, dân cư thưa
thớt. Đường Quang Trung chạy dài từ Ngã năm Chuồng chó, băng qua cầu vượt QL1 đến
Tô Ký, xuôi về Thị trấn Hóc Môn. Cuối đường Tô Ký, tại ngã ba Chùa, đường lại
mang tên Quang Trung. Dấu ấn vua Quang Trung đánh tan hai mươi vạn quân Thanh,
đã ghi đậm vào tâm hồn người dân nơi đây chăng?
Bên
kia đường Tô Ký là Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung (nay là Trung Đoàn Gia Định). Vườn Tao ngộ dành cho thân nhân đến
thăm con em, người tình tân binh, mỗi chủ nhật hàng tuần, nay được cho thuê
kinh doanh cây cảnh, bonsai… Ai đã có lần, hẳn không quên: “Hôm nay ngày Chủ Nhật/ vườn Tao Ngộ
em đến thăm anh/ Đường Quang Trung nắng đổ xa xôi/ Mà em đâu có ngại khi tình
yêu ngun ngút cao lên rồi/ Ta nhìn nhau bâng khuâng/ Đâu biết rằng chuyện đôi
ta sẽ vui hay buồn/ Ngày mai ra đơn vị/ Đường trần hai lối mộng thôi từ đây biết
ra sao?”(Vườn Tao Ngộ -
Nhật Hà)
Bà
con xóm tôi đủ vùng miền. Từ Thái Bình, Nam Định, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng
Ngãi… đến Long An, Sóc Trăng, Cà Mau. Tất cả đều tha phương cầu thực.
Mỗi
sáng, quán cà phê cô Hai họp mặt đủ người. Ly cà phê chỉ là cái cớ, những mẫu
chuyện thời sự, chuyện xóm, chuyện đời trao đổi râm ran.
Chú
Minh nhìn vườn cây đủ loại của Tám De - Nam Định. Sống ở đây quen tật, ai cũng gọi tên
có thứ (mấy) đi kèm. Khề khà:“- Ra đường thấy mấy xe máy chở cây kiểng đằng
sau, đánh chết tui cũng biết đó là bà con Nam Định”.
Ông
Hai Ngàn góp lời:“- Tui thương mấy em
cháu đó quá! Chịu khó làm ăn. Không sĩ diện như Năm Thu, thầy cô giáo về hưu, gia
cảnh không khá giả gì. Chỉ cho con đi học hết trường này lớp nọ, không chịu cho
lũ nhỏ đi làm thêm, mở mang kiến thức. Lớn trộng hết cả rồi”.
Bà Ba
Sóc Trăng, sống một mình, không thấy chồng con. Rít hơi thuốc dài, uống cạn ly
cà phê đá nhìn ông Hai Ngàn:“- Nói dzậy
chớ tuỳ người ông ơi, dân miền trung chịu khó hết biết. Cả nhà Sáu Nghệ hết đi
làm hồ, phụ hồ, lại đi chăm sóc cây cảnh cho Tám De. Ối! hơi đâu, làm đồng nào
ăn đồng nấy cho khoẻ”.
Ông
Hai Ngàn đăm chiêu, ra vẻ nghĩ gì lung lắm. Ông chậm rãi:“- Tui định dùng gian nhà của tui, mời thầy về dạy thêm miễn phí cho lũ
trẻ xóm mình, học được chút chữ nghĩa cũng giữ được đạo thánh hiền. Nhưng nghe
nói nhà nước cấm. Không biết làm sao!”.
Năm
Thu xoay xoay ly cà phê nguội ngắt, ngước nhìn Ông Hai Ngàn ngập ngừng:“- Nếu đươc, vợ chồng tui tình nguyện góp một
tay”. Ông Hai Ngàn phấn chấn:“- Tui mời
thầy dạy Anh văn nữa. Thời buổi này không biết ngoại ngữ, các cháu không làm ăn
gì được”.
Tám
De nảy giờ lắng nghe. Hai đứa con thất học, không xin được vào trường vì trái
tuyến, không hộ khẩu. Rụt rè:
“- Con
xin góp mấy bộ bàn ghế”.
Không
biết trà dư tửu hậu vô bổ ở đâu, chớ ở đây chỉ ly cà phê ai uống nấy trả, đã
phôi thai hình thành lớp học dành cho con cháu những kẻ tha hương.
Ông Hai Ngàn xót xa:“- Phải gì yên bình, cắc cớ gì không ở quê nhà!”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét