Chú An ngồi thẫn thờ
trước mộ ba. Tuần trước chú cùng ba đối ẩm, ba trách chú hoang đàng chi địa,
gần năm mươi chưa vợ con gì. Chú An im lặng, chỉ cười.
Nội tôi có ba tôi và
chú. Ngày ba tôi tha
phương cầu thực, cưới mẹ tôi, rồi theo quê vợ. Tôi sinh ra ở Nha Mân (nay thuộc
xã Tân Nhuận Đông, huyện Châu Thành, Đồng Tháp)
" Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh,
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân"
Nghe nói khi xưa, Chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đuổi chạy dài, bỏ lại
cung tần, mỹ nữ tại Nha Mân. Biết đâu mẹ tôi là hậu duệ của một trong các bà.
Mẹ tôi đẹp nhất đời. Ít ra, dưới mắt cha con tôi.
Năm lên mười, tôi
chưa biết mặt ông bà, họ hàng bên nội. Chú An ở với ông bà. Ngày ông nội mất.
Ba mẹ đưa tôi về, chú An đã hơn hai mươi. Tôi gặp chú lần đầu. Chú đẹp trai hơn
ba tôi. Mắt bà nội đã mù, bà ôm tôi vào lòng, sờ tai sờ mũi tôi. Bà khen tôi
đẹp hơn chú An.
Quê nội tôi bên bờ nam, hạ lưu sông
Thu Bồn. Vùng đất bồi, màu mỡ phù sa, cây trái quanh năm.
Tuổi ấu thơ tôi, sông nước quê ngoại, cá tôm, hoa súng, tát đìa, mắm ba
khía thấm đẩm vào chân tơ kẻ tóc. Nếu ông chưa mất, có khi tôi không biết quê
nội tôi ở nơi nào.
Ba tôi giục chú An
lấy vợ. Chú nhìn mẹ tôi không nói gì. Chú chỉ cười cười: Bỏ mẹ cho ai?
Chú An cõng tôi chạy ra bờ sông. Hai
chú cháu nhảy ùm. Dòng nước sông Thu Bồn trong xanh, phẳng lì, không gợn sóng.
Chú không ngờ, tôi bơi như con rái cá. Bên kia sông, những biền dâu xanh ngát
bạt ngàn. Quê nội tôi, nổi tiếng làng tơ lụa một thời.
Chú An kể chuyện tình
ly kỳ, diễm tuyệt giữa cô gái hái dâu đêm bên bãi sông với một vị công tử:
Cách đây hơn 400 năm, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên tuần du Quảng Nam, Công tử
Nguyễn Phúc Lan đi theo hộ giá. Thuyền neo ở gành Điện Châu. Nghe tiếng hát đẩy
đưa theo làn gió, dưới ánh trăng vằng vặc, lung linh trên sóng nước. Lấy làm
lạ, Công tử Nguyễn Phúc Lan sai người đến hỏi, biết là con gái họ Đoàn. Công tử
cho vào hầu. Bà sinh một trai là Chúa Nguyễn Phúc Tần sau này.
Cái lạ, cái khác
thường chính là cô thôn nữ đã dám... tỏ tình với chúa từ thân phận của mình qua
câu hát : “Tai nghe chúa ngự thuyền rồng/
Cảm thương phận thiếp má hồng nắng mưa... Thuyền rồng chúa ngự nơi đâu/Thiếp
thương phận thiếp hái dâu một mình…”
Các đời vua nhà
Nguyễn sau này, truy tôn bà là Hiếu Chiêu Hoàng Hậu, nhưng dân làng yêu kính
bà, vẫn gọi bà là Đoàn quý phi. Dinh trấn Thanh Chiêm, còn lưu giữ được đền thờ
của Hiếu Chiêu hoàng hậu.
Tôi nghe say mê. Trời
vào đêm, ánh trăng đã trải thảm vàng dìu dịu trên ngàn cây, ngọn cỏ. Con đường
tơ lụa trên sông ngày nào, còn văng vẳng giọng hò của cô gái họ Đoàn, mơ hồ
vang vọng mãi trong tôi.
Bà nội bịn rịn, không
muốn xa tôi. Từ đôi khóe mắt trắng đục, hai dòng lệ lăn dài trên đôi má nhăn
nheo. Tôi ước gì, ba mẹ tôi đưa bà và chú An theo về.
Hè năm ấy, sau khi
tốt nghiệp phổ thông. Tôi về thăm nội. Chú An đón tôi từ thị trấn Vĩnh Điện,
bằng chiếc xe máy cà tàng. Sau tám năm, tôi đã cao hơn chú. Chú siết tôi vào
lòng. “- Mi ra thanh niên rồi!”.
Bà nội ngồi trên
giường, bên cạnh cơi đựng trầu ống ngoáy, chìa ngoáy, ống nhổ... Bà nội đưa hai
tay huơ huơ. Tôi ôm bà chưa trọn vòng tay, bà tôi nhẹ tênh, chỉ có hai đầu gối
nhô lên ngang đầu. Nhưng bà cười rạng rỡ. Tôi đi bà khóc, tôi về bà cũng khóc.
Nước mắt tôi cũng ứa theo bà.
“- Hai bà cháu như con nít!”. Chú An nói mà mặt ngó lơ.
“- Hai bà cháu như con nít!”. Chú An nói mà mặt ngó lơ.
Bà tôi kể: “- Ba mi xung khắc với ông nội. Một đêm trời tối đen như mực, mưa phùn
gió bấc. Chưa thấy ông về. Ba mi băng đồng, chạy xuống bến đò đón ông. Đò sang
chuyến chót, chỉ còn vài người lạ. Nhưng ông mi đã về nhà. Không thấy ba mi,
ông chống gậy đi tìm. Hai cha con gặp nhau giữa đường. Chưa hỏi han, ông đã quở
mắng. Rứa mà, ba mi cứng đầu, im lặng. Rồi sau đó, bỏ đi biền biệt. Tau khóc
hết nước mắt”.
Bà tôi tuy lớn tuổi, nhưng còn minh mẫn. Con cháu họ Hoàng. Sau ngày cụ Hoàng Diệu tuần tiết
theo thành Hà Nội. Đông đảo sĩ phu Bắc Hà khâm phục và thương tiếc. Ông được
thờ trong đền Trung Liệt, cùng với Nguyễn Tri Phương trên gò Đống Đa với câu
đối:
“Thử thành quách, thử giang sơn, bách
chiến phong trần dư xích địa
Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm
sự vọng thanh thiên”
Dịch:
Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đất
Dịch:
Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đất
Là
trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh
Tôn Thất Thuyết, theo phái chủ chiến trong
phong trào Cần Vương, kiên quyết chống Pháp đã ca ngợi ông trong hai câu đối:
“Nhất
tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện
Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm”
Dịch:
Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trước
Bình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm.
Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm”
Dịch:
Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trước
Bình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm.
Bà tôi đã từng theo tây học.
Ông tôi theo Nghĩa
hội của Nguyễn Duy Hiệu. Hưởng ứng lời kêu gọi cứu nước của vua, Nguyễn Duy
Hiệu cùng Trần Văn Dư, Phan Bá Phiến (Phan
Thanh Phiến), Nguyễn Tiểu La (Nguyễn
Hàm), thành lập Nghĩa hội Quảng Nam. Ra bản cáo thị kêu gọi toàn dân trong
tỉnh cùng đứng lên đáp nghĩa.
Gặp phải Nguyễn Thân,
người Quảng Ngãi, trước cũng theo Nghĩa hội, sau làm phản theo Pháp. Ông Hường
Diệu chịu tội một mình. Ông tôi mới thoát tù tội, về quê dạy học, bốc thuốc.
Rồi nên duyên giai ngẫu cùng bà.
Khi
tôi đã ra trường đi dạy. Bà tôi mất đúng ngày ra đi của ông tôi. Mẹ tôi bệnh,
tôi đưa ba về chịu tang bà. Bà tôi được an táng tại cánh đồng Xuân Đài, nghĩa
trang gia tộc họ Hoàng.
Mộ
ông Hoàng Diệu chỉ là nấm mả vôi đơn sơ, cỏ mọc hoang vu, che khuất phần bia. Mộ
phần vị tổng đốc đã tuẩn tiết vì không giữ được thành Hà Nội, sao quá ảm đạm.
Lòng tôi đau xót, bùi ngùi.
…….
Chẳng còn gì nữa đâu
Lối cũ làng xưa
Với Xuân Đài đồng nội
Mộ Hoàng Diệu với từng cơn bão nổi
Sinh ở đất Gò địa táng cũng ngàn năm
Lối cũ làng xưa
Với Xuân Đài đồng nội
Mộ Hoàng Diệu với từng cơn bão nổi
Sinh ở đất Gò địa táng cũng ngàn năm
Gò Nổi ta ơi lòng Mẹ
thăng trầm
Đất "Ngũ Phụng Tề Phi" rạng ngời gương chính khí
Đất "Ngũ Phụng Tề Phi" rạng ngời gương chính khí
Hôm tôi về thăm quê hương
Đò xuôi sóng vỗ
Đò xuôi sóng vỗ
Bãi dâu xanh tơ vàng ánh nước
Lối cũ đến trường nhớ chuyện ngày xưa
Lối cũ đến trường hai buổi sớm trưa
Chiều Bảo An nghe miên man dòng nhớ
Trần Cao Vân âm vang muôn thuở
Đất phù sa Tư Phú rạng danh Người
Lối cũ đến trường hai buổi sớm trưa
Chiều Bảo An nghe miên man dòng nhớ
Trần Cao Vân âm vang muôn thuở
Đất phù sa Tư Phú rạng danh Người
(Thăm quê – PNCU)
Chú An vẫn một mình. Quê nội tôi không còn
bình yên. Đêm đêm, tiếng đại bác depart
từ chi khu Điện Bàn rót vào đâu đó. Dòng sông Thu Bồn không còn trong xanh như
ngày xưa. Những xác người, tay buộc chặt sau lưng, úp mặt trôi về cửa Đại hay
sông Hàn ra biển.
Chú An không về với gia đình tôi.
Mười mấy năm sau. Không biết từ đâu, chú
An lại về. Chú tìm đến nhà tôi vào buổi chiều muộn. Từ xa, tôi đã linh cảm
người đàn ông, dáng vẻ phong trần là chú. Chú An cười, nhưng không vồ vập ôm
tôi như ngày còn thơ dại:”- Mi đàn ông
thứ thiệt rồi!”.
Ba người đàn ông thứ thiệt, lại không nói
gì về chuyện riêng của mình. Nhìn tóc tai bụi bặm, ba tôi cũng đoán được phần
nào cuộc đời bôn ba, thăng trầm của chú.
” - Gia tộc đã có người nối dõi tông đường, “bất hiếu hữu tam, vô hậu
vi đại”. Nhà ta đã có cháu rồi. Anh còn
mong gì nữa?”. Chú An cười sảng khoái, vỗ vỗ vào vai tôi.
Vậy mà, hai hôm sau ba tôi mất vì tai nạn.
Chú và ba không còn cơ hội nào trên đời để gặp nhau, hàn huyên
tâm sự. Tuần trước, chú cùng ba đối ẩm, ba trách chú hoang đàng chi địa, gần
năm mươi chưa vợ con gì.
Đã từ lâu, chú An rời
xa quê nội tôi, lang bạt kỳ hồ. Cuộc đời đẩy đưa chú ngược miền tây bắc. Mai
Châu đẹp mộc mạc như cô thiếu nữ vùng sơn cước, thung lũng xanh ngát, óng ánh
tơ trời từ những bộ trang phục thổ cẩm của các cô gái Thái, Dao hay H’mông, trong
nắng chiều. Mái nhà sàn đơn sơ, toả những sợi khói bay lơ lững, đẹp như tranh
thuỷ mạc. Đôi chân phong trần của chú, bị níu lại nơi này.
Tôi ngạc nhiên hết sức.
Những vần thơ trên trang văn nghệ lâu nay, đẹp và ấm áp tình người, đã đưa tâm
hồn tôi bay bổng, lại là của chú.
Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
………….
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
………….
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Đời chú như áng mây
bay, chú theo đàn chim thiên di về phương nam. Chú An vẫn bùi ngùi nhớ về một mảnh
trăng non chênh chếch sườn đồi, một dòng suối mát róc rách mãi khôn nguôi trong
lòng chú.
……
Chiều nay... thương nhớ nhất chiều nay
Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy
Tôi uống cả em và uống cả
Một trời quan tái, mấy cho say!
Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy
Tôi uống cả em và uống cả
Một trời quan tái, mấy cho say!
(Một
trời quan tái – Nguyễn Bính)
Trời phương nam trong xanh. Dòng Cửu Long
cuồn cuộn phù sa, con nước mang theo lục
bình trôi xuôi về chín nẻo.
Chú An vẫn một mình. Có
ai thương, ai mong, ai nhớ để chọn nơi ấy làm quê hương?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét