“- Tổ cha mầy! Đói vô ăn cơm. Con ngựa ốm
nhách, mệt”. Bà già trầu miệng nhai, tay quẹt. Nước trầu đỏ thắm, tươm
môi kẻ chỉ.
Hình
ảnh chiếc xe ngựa - thổ mộ (Người Pháp gọi: boite
d' allumettes - xe hộp quẹt).
Với tiếng vó ngựa lộc cộc, tiếng lục lạc leng keng, tiếng kêu lách cách của cặp
bánh gỗ, tạo thành bản hoà tấu, giàu âm điệu. Con ngựa ốm tong teo, kèm hai miếng
da che mắt của hai Thành, đã trở nên thân thương, quen thuộc của bà con.
Mỗi
khi ngang quán bà già trầu, câu nói quen thuộc như sưởi ấm tâm hồn cô quạnh của
hai Thành. Chiếc xe thổ mộ đã để lại nhiều kỷ niệm đối với người dân Mười tám
thôn Vườn trầu - Bà Điểm, Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Dầu Một… Xe thổ mộ cũng là một
nét văn
hoá - lịch sử của vùng đất này.
Mười tám thôn vườn trầu, tên chữ “Thập bát phù viên” hay “Thập
bát phù lưu viên”
Ngày xưa, Mười tám
thôn vườn trầu còn hoang sơ, cỏ cây rậm rạp và nhiều thú dữ, đặc biệt là hổ.
Tương truyền hổ - “Ông ba mươi”
thường nghênh ngang trên đường làng giữa ban ngày, ban đêm thì thả sức tung
hoành quấy phá. Vì vậy mới có câu "dữ như cọp mười tám thôn vườn
trầu". Mỗi lúc đi bán trầu, các nhà vườn phải đi chung ba, bốn mươi người,
gồng gánh trầu về bán tận Sài Gòn, Bến Nghé.
Hai Thành không vợ
con, một chân bị cưa trên gối. Đến bây giờ không ai biết gốc gác hai Thành. Lúc
thì nói du kích, lúc thương phế binh, không biết đâu mà lần. Bà già trầu chỉ
biết hai Thành một giò. Hai Thành xe ngựa, chịu khó, hiền lành…
Mấy lần bà gợi ý gả năm Lộc cho hắn. Năm Lộc
tuy không đẹp, nhưng giỏi chạy chợ. Lớn hơn hai Thành một tuổi, chưa chồng,
chưa phải gái già. Hai Thành không ừ, không hử.
Mỗi lần thấy nó cà
nhắc đưa hàng của năm Lộc lên xe, ràng rịt cẩn thận, phủi bụi chỗ ngồi. Bà già
trầu chắc mẩm, trước sau gì hắn cũng làm rể bà.
“- Tổ cha mầy! Nhà đây, cửa đây. Thui thủi
một mình. Bịnh hoạn ai lo?”.
Hai Thành muốn
khóc, nhưng mặt ráo hoảnh. Mười ba tuổi mồ côi cha, mẹ lấy chồng khác. Hắn theo
làm nài trường đua Phú Thọ. Nài càng nhẹ ký, ngựa chạy càng nhanh. Nhiều lần
tay yếu cầm cưong, ngựa quăng hắn lăn lông lốc. Người ta chỉ cần biết tên ngựa:
Thanh Long, Lữ Bố, Triệu Tử Long… Không cần biết hắn.
Ngày hắn chống nạng
lò cò về Bà Điểm. Ông ba Sanh cho hắn tá túc, đưa hắn đi lắp chân giả, tập cho
hắn chạy xe thổ mộ. Ông ba Sanh mất, không con cháu gì. Giao gia sản gồm căn
nhà lá, hơn chục giàn trầu, chiếc xe thổ mộ và con ngựa trành chỉ còn loe hoe
lông đuôi cho hai Thành.
Bà già trầu nhìn bốn
cái hột vịt lộn trên bàn, bà biết của hai Thành. Sao hôm nay không nghe tiếng
leng keng. Bà réo năm Lộc: “- Mầy chạy
qua hai Thành. Tổ cha nó…”. Không biết bà còn định nói gì. Năm Lộc chưa
nghe xong, chạy mất hút.
Nhà hai Thành cửa
đóng then cài. Không biết đi đâu!
Tiếng chuông chùa Linh
Sơn ngân nga, theo gió lan dần về thôn xa. Chùa Linh Sơn do Hòa thượng Thích Từ
Sơn (1907-1972) sáng lập năm 1958. Tọa lạc tại ấp Hậu Lân, Bà Điểm.
Từ ngày hai Thành ra đi
không từ giã. Bà già trầu vừa giận vừa thương. Cô năm Lộc vẫn tất tả thường
ngày chạy chợ. Nhưng cũng có lúc, cô thấy thiếu vắng một cái gì. Tiếng leng
keng của xe ngựa hai Thành như vừa giục giã, vừa quyến luyến. Xe thổ mộ nào
không leng keng. Nhưng khác xa...
Hôm nay rằm tháng bảy,
Lễ hội Vu Lan. Năm trước trên đường về ngang chợ Hòa Hưng, hai Thành tặng cô
năm Lộc một đóa hoa hồng, định cài lên ngực, nhưng không dám. Sự lúng túng của
hai Thành làm mấy bà trên xe hiểu theo nghĩa khác. Bà Thanh lò vôi ấn vào tay
hai Thành bó hoa cúc vàng thắm, mắt liếc về phía cô năm Lộc…
Ngày rằm tháng bảy, xá
tội vong nhân. Cô năm Lộc noi gương đức Mục Kiền Liên, nguyện làm con thảo. Hai
Thành cảm mến tấm lòng hiếu thuận của cô. Nhưng nghĩ về phận mình, hai Thành cứ
để nước chảy hoa trôi.
Bà già trầu đi ra đi
vào, dừng chân vén mấy ngọn trầu non tơ lả lơi, không biết bám víu vào đâu. Bà
thở dài, nhắc cô năm mua hương đèn, vàng bạc cúng tế cô hồn. Những vong linh
khuất mày khuất mặt, tứ cố vô thân, trôi sông lạc chợ, quên mất đường về.
Hai Thành đã xuất gia, quy
y Tam bảo. Thầy Huyền Chiêu trụ trì chùa Linh Sơn, vốn là chú nài ngựa mồ côi
năm xưa, cùng lứa hai Thành. Duyên lành đưa về bến giác, hai Thành bỏ lại sau
lưng, tấm lòng đôn hậu của bà già trầu và tình yêu sắc sắc không không của cô
năm Lộc.
Từ ngày hai Thành đi tu,
bà già trầu vừa thất vọng, vừa thấy tâm hồn mình thơ thới, an lòng. Bà cùng năm
Lộc siêng năng đi lễ chùa hơn.
Một lần đàm đạo với
thầy Huyền Chiêu, hai Thành ấp úng muốn hiến mảnh vườn gần 5 công đất nhà mình,
làm công ích. Thầy Huyền Chiêu trầm ngâm:“Thầy
ước gì thành lập được trung tâm ngoại ngữ miễn phí cho con em: Mười tám
thôn vườn trầu, Bà Điểm”
Bà già trầu chờ thầy
Huyền Chiêu dứt lời, vội đứng lên chắp tay:“Con
xin cúng dường năm phòng học đầu tiên, cùng bàn ghế, bảng đen”. Cô năm Lộc ngạc
nhiên nhìn mẹ, nhưng lòng cô hân hoan như vừa cùng hai Thành làm nên nghĩa cả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét