Hoàng Dung gốc Huế, cất tiếng hò điệu mái nhì, nghe như than thở:”Chiều chiều
trước bến Văn Lâu/ Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm/ Ai thương ai cảm ai nhớ ai trông/ Thuyền ai thắp thoáng bên sông/ Đưa câu mái đẩy chạnh
lòng nước non… “.(Ưng Bình Thúc Giạ)
Giai điệu câu hò mái nhì da diết, mềm
mại, thiết tha khiến lòng Đoan Bình bâng khuâng, nhớ về miền sông nước quê nhà.
Hò mái nhì mà đưa câu mái đẩy. Con thuyền mỏng manh chơi vơi, khòm lưng chèo ngược nước, như người ngược
dòng đời, chạnh lòng tha hương thương non nhớ nước, trong vất vả, gian nan.
“Phu Văn Lâu (lầu trưng
bày văn thư) ở mặt Nam kinh thành Huế,
trước kỳ đài và Ngọ Môn:“Ngọ Môn năm cửa
chín lầu/ Kỳ đài ba bậc/ Phu Văn Lâu trước thành”. Thời Minh Mạng, triều
đình cho dựng hai tấm bia đá:”Khuynh cái
hạ mã”(Nghiêng nón xuống ngựa). Danh sách các khoa danh tiến sĩ được niêm
yết tại đây. Phía trước Phu Văn Lâu có tiểu đình kề bên sông Hương gọi là
Nghinh Lương Đình dành cho các vua tiêu dao, ngắm cảnh”.
Phu Văn Lâu - Huế
Miền quê Ba Tri - Bến Tre của Đoan Bình cũng
nước ròng nước lớn. Cuộc đời cô thăng trầm theo vận nước đảo điên. Cha cô – cụ
Đề Giang, gom góp của cải ủng hộ và hưởng ứng
phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, thuở nhỏ Đoan Bình theo học chữ
nho, bốc thuốc với bà Sương Nguyệt Anh (Nguyễn Thị Khuê – con gái cụ Đồ Chiểu),
lúc này Sương Nguyệt Anh đã mù giống cha mình. Đoan Bình được cha dạy võ từ
sớm, cô lên Saigon tìm nơi dựng nghiệp, đã gần bốn mươi nhưng vẫn chưa chồng. Thập
niên 50 nhiều biến động, cô vừa học vừa làm. Xã hội đã phân hoá như Cửu Long
giang đổ ra chín cửa, lòng cô chơi vơi giữa dòng đời.
Thời thế nhiễu nhương, các phong trào
chống Pháp ồ ạt nổi lên. Dương Văn
Dương, thủ lĩnh các nhóm giang hồ Nam Bộ thống nhất lực lượng ở Tân Quy, Tân
Thuận, Nhà Bè, Thủ Thiêm và lực lượng Bình Xuyên ra đời, hàm ý tấn công, bình
định các vùng đất trên sông rạch.
Tại
Tân Châu - Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên, Cần Thơ, lực lượng Hoà Hảo với người
sáng lập giáo phái là Huỳnh Phú Sổ. Tại Tây Ninh giáo sư Thượng Vinh Thanh thay
mặt Hộ Pháp Phạm Công Tắc tập hợp các tín đồ Cao Đài hợp tác với quân đội Nhật
chống Pháp. Việt Minh và Liên Việt hợp nhất lấy tên Mặt trận Liên Việt hay Việt
Minh, quy tụ nhiều thành phần quốc gia yêu nước. Mục tiêu duy nhất của các lực
lượng là chống kẻ thù chung, dành độc lập cho dân tộc mình.
Đoan Bình không theo ai cả, cô tập hợp lực
lượng toàn nữ giới có cùng chí hướng, luyện tập võ nghệ và khai sáng “dân trí”.
Cô không dám mang hoài bảo lớn lao như cụ Phan:”Khai dân trí. Chấn dân khí. Hậu dân sinh”. Chủ trương “khai dân
trí” của cô không dành cho người mù chữ, đồng chí của cô là nữ lưu anh kiệt,
con nhà gia thế có dũng khí bà Triệu, bà Trưng.
Cô cho người theo dõi và ra tay trừng trị
những tham quan ô lại, bất kỳ ai đang có quyền thế mà giàu có bất minh, không
kể đảng phái, phe nhóm nào. Lực lượng của cô xuất quỷ nhập thần như thích
khách, như cao thủ võ lâm trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung.
Một đêm không mưa gió nhưng màn đêm tối
trời, cai tổng An nghênh ngang vung gậy quất vào đầu đám nông dân đang quỳ lạy
cầu xin bớt sưu, giảm thuế. Bọn sâu dân mọt nước tôn cai tổng An lên bậc thượng
thừa. Bỗng lưỡi dao như lá lúa xuyên thủng tim, chết đứng. Lũ quan làm to, mưu
mô càng khó đoán, nhưng cứ nhìn hành vi của bọn tay chân, suy ra chân tướng kẻ
tham tàn.
Mật thám Pháp đưa lưỡi dao đi lấy vân tay,
truy tìm hung thủ. Lưỡi dao mỏng manh như có thần, cong lưỡi chĩa vào yết hầu
Rober – trưởng Phòng Nhì Pháp, hắn hoảng hồn vung tay, lưỡi dao cắm phập vào
ngay mắt bức chân dung của hắn treo trên tường.
Cai tổng An chết, dân nghèo cũng không bớt
khổ. Hằng ngàn tên đầu sỏ, cai tổng An khác còn bạo liệt, tàn nhẩn hơn trên đất
nước này. Dân càng nghèo, càng cong mình cam chịu ách thống trị bất công.
Đoan Bình mất phương hướng, lý tưởng của
cô mong “Quốc thái dân an” như mò kim
đáy biển. Mộng tranh bá đồ vương của các phe phái, tàn sát lẫn nhau, gây ra
biết bao thảm cảnh, trong khi đất nước như dầu sôi lửa bỏng. Ai vì nước vì dân?
Hoàng Dung nhìn mây trời u ám, phương Nam
hắt hiu buồn theo cơn gió tàn đông, ngâm nga điệu hò mái đẩy. Đò đi ngược nước,
nhịp điệu cần dứt khoát:
“(ơ) Cựa Hói Cầu Hai (hờ)… Hấy. (Chơ) Ai về Cựa Hói Cầu Hai
(hờ)… Hấy. (ơ) Thăm người bạn cũ (hờ)… Hấy. Thăm người bạn cũ (hờ)… Hấy. Chớ
(có) nghe ai mà bỏ mình (hờ)… Hấy”.
Nhưng mấy ai đồng lòng, nên đò cứ trôi
xuôi, trôi mãi theo dòng nước, về đâu?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét