Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2017

CÁI ĐỒNG HỒ

      Lão Bạc sống trong nhung lụa từ nhỏ. Cha mẹ lão giàu nhất làng, nhưng vẫn đặt tên con : Hoàng Ngân, Bạch Kim, Bách Bạc, Kim Ngân. Lão là con trai cầu tự, nên được cưng chìu hết mực.
     Thời xưa, ít ai có xe đạp Peugeot, đồng hồ Longines, giày da Nam Định. Vậy mà lão còn chê. Suốt thời tiểu học, lão cưỡi lên lưng ông Ngạc – Người quản gia già, đi về sớm tối. Rồi lão học trường Tây, lão có bằng Deuxième Partie. Lão sang Pháp du học.
     Ngày cha lão mất, lão không về, chỉ gửi “mandat” hai trăm Franc, kèm theo bưu thiếp chia buồn với mấy chị em lão, rồi thôi.
      Lão lấy vợ đầm, lão chê dân “Annamite”. Nghe nói vợ lão là con cháu quan toàn quyền Đông Dương.
     Mãi hơn bốn mươi năm sau, lão về. Mẹ lão đã qua đời. Dinh thự ngày xưa của gia đình lão, chỉ còn đống gạch hoang phế, không còn chút gì để lão gợi nhớ, nơi lão đã từng…Mụ vợ đầm đã bỏ lão, con cái trưởng thành, tứ tán. Vùng quê Normandie (Pháp), nơi sản xuất loại rượu táo truyền thống tinh tế và đặc biệt Calvados, không dung lão.
     Lão xây căn nhà ngói theo kiểu tây, có ống khói ló ra khỏi mái nhà, trên nền đất cũ. Những sinh hoạt và ăn uống hằng ngày lạ lẫm, bánh mỳ nướng phết mứt kết hợp với café, thịt jambon, bánh ngọt, bánh mỳ que, bơ, mứt, sữa chua, sa lát, súp, paté, khoai tây, phô mai, rượu Bordeau…Lão vẫn quen thói phong lưu. Một mình lão với hai người giúp việc. 
     Đùng một cái, lão tuyên bố lấy cô Dung – người dọn phòng cho lão. Cô Dung kém lão hơn ba mươi tuổi. Đám cưới, lão không mời ai, kể cả thông báo cho mấy chị em của lão. Nhưng lúc cô đơn, lão nhớ ông Ngạc - Ông Ngạc đã chết từ lâu. Những ký ức hiện về quanh đây, khuôn mặt cha mẹ lão lờ mờ, thoát ẩn, thoát hiện. Chị Hoàng Ngân và cô út Kim Ngân định cư ở Mỹ. Chị Bạch Kim, sau ngày chồng mất, theo con sang Pháp. Vậy mà lão lại về.
     Cô Dung, gái quê, mộc mạc, chăm làm, nhưng không thích món tây. Cô phun phì phì, khi lão ôm hôn môi. Cô nhắm tít mắt, ngậm cứng hàm răng, nhưng cô thích làm tình. Lão Bạc không tiếc cô cái gì, lão đưa cô xuống phố, lão cao lênh khênh, cô Dung mập mà lùn tịt. Lão bắt cô uốn tóc “phi dê”, mặc áo đầm, tay đeo vòng cẩm thạch. Nhìn cô, không ai nhận ra cô Dung, con bà Hai bán cá ngày nào. 
     Cô Dung thật giỏi, mở tiệm tạp hoá trước nhà. Hàng hoá đa số đã đóng hộp, nào là cá hộp Sumaco, ba tê gan, thịt bò, heo, gà, rau muối chua, sauce cà, sữa ông Thọ…nước mắm, dầu, chè. Cô nói đồ hộp cho lão dùng. Dùng không hết, đồ hộp phình ra, lão đổ bỏ hết, vì quá “date”.
     Lão Bạc sung mãn ở tuổi gần bảy mươi. Lão có tật quái dị, bất kỳ lúc nào hứng, lão đều gạ gẫm cô Dung “faire l’amour” (làm tình). Lúc thì ở ghế salon, cả những lúc cô Dung lúi húi dưới bếp…Cô chăm sóc lão như mẹ chăm con, nhịn nhục khi lão nổi cơn tam bành. Lão giận hờn như trẻ con, khi cô Dung không hiểu lão nói gì...
      Lão bị ảnh hưởng bởi phim “cochon”. Tiếng Pháp cochon nghĩa là con heo. Lão như heo nọc, chồm lên…
      Lão quên mất tiếng mẹ đẻ, vật dụng gì lão cũng xài tiếng tây. Riết rồi cô Dung cũng lõm bõm nào là garde-manger, merci beaucoup, table de nuit…
     Khí hậu nhiệt đới làm lão khó chịu, gió hạ Lào khô khốc thịt da. Lão kêu thợ xây máng nước, chạy quanh tường phòng ngủ. Hơi nước làm dịu không khí oai bức, nhưng độ ẩm tăng cao làm lão nhức đầu, nước mũi chảy ròng ròng. Lão Bạc chửi ỏm tỏi. Cô Dung đập dẹp mấy tép tỏi, cột vào lòng bàn chân lão, mang tất vào. Vậy mà lão hết sổ mũi. Lạ thiệt. Lão chỉ sùng bái tây y, lão chê thuốc nam vớ vẩn. 
     Cô Dung thèm đứa con, trai gái gì cũng được, nhưng lão không cần. Lão chỉ để ý khi nào cô Dung có kinh nguyệt, lão lẩm bẩm một mình : un, deux, troi, quatre, cinqt…Lão nói phương pháp Ogino-Knauss, thật hiệu quả. 
     Đám con tây lai bên Pháp, có đứa nào nghĩ đến lão đâu ? Không hề có cái “télégramme” nào, kể từ ngày lão quy cố hương.
     Lão không biết đi xe đạp, dù ngày xưa lão đã từng đi. Đồng hồ của lão có nắp, móc tòn teng với chùm chìa khoá, lúc nào cũng khư khư bên lão.
    Mùa đông lại về. Gió mùa đông bắc ẩm ướt, nhưng không có tuyết rơi như bên tây. Lão Bạc co ro, trầm tư nhìn ra cánh đồng trắng xoá, ngập nước. Những bóng người mờ mờ trong mưa, mưa rả rích suốt ngày đêm. Lão nhớ cái lụt năm nào - khi lão còn bé. Mẹ lão lọt thỏm trong chiếc tơi lá, tất tả cùng người làm, dọn nhà chạy lụt.
     Đi đâu về, lão vác nhánh thông xanh um. Mùa Noel, tết Tây với lão là thiêng liêng. Lão tỉ mỉ trang trí, những vòng dây kim tuyến lạ mắt, treo những quả cầu sáng lấp lánh lên tán thông, giăng các chuỗi cườm, thành từng tầng võng rủ. Dưới gốc thông là những hộp quả, trên ngọn thông là ngôi sao, gần đó treo những chiếc tất đựng quà của Santa. Lão quát cô Dung : lấy cái “briquet” (hộp quẹt). Cô Dung ngớ người. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, cô biết Noel là gì đâu.
    Lão sống bên tây gần hai phần ba cuộc đời, dù lão không phải là con chiên ngoan đạo. Nhưng vẫn theo vợ con đi nhà thờ, như một nghĩa vụ. Lão đã quen đêm Giáng Sinh của người châu Âu, món ăn không thể thiếu trên bàn tiệc là gà tây. Không có gà tây, lão nói cô Dung tìm mua cho bằng được con gà trống thiến. Người ta thường thưởng thức món gà tây nấu hạt dẻ, lão nấu gà với đậu phụng, kèm theo táo khô và nấm. Đâu đó tiếng nhạc của đại phong cầm dìu dặt cùng với tiếng hát thánh thót của bài thánh ca, vọng ra từ chiếc radio “transistor” của lão…
     Tiệc Reveillon - nửa đêm Noel, chỉ có hai người. Những ly rượu làm má cô Dung ửng hồng, mắt long lanh nhìn lão. Lão Bạc như lạc thiên thai, lão ôm ghì cô Dung, lật ngửa.
     Cuối đông, tia nắng le lói mùa xuân, mang hơi ấm dịu. Tết Nguyên Đán gần kề, cô Dung lể mể xì xụp khấn vái, đưa ông Táo về trời. Lão Bạc tò mò hơn là kính ngưỡng, lão không còn nhớ cái tết cổ truyền, dựng nêu, đưa rước ông bà. Cô Dung tất tả gánh nếp đi bung, làm đủ loại bánh: bánh in, bánh tét, bánh nổ, bánh khô, bánh tổ…tay cô nhào nặn, cho bột vào khuôn. Lão kéo hơi thuốc từ ông vố, phà khói mù mịt, nhổ nước bọt, quay đít lên nhà.

    Từ ngày về lại quê hương. Lần đầu tiên, lão Bạc lạ lẫm, nhìn ai cũng sang trọng hẳn lên. Các cụ cao niên, khăn đóng, áo dài. Trẻ con quần áo mới, tung tăng, hớn hở. Không khí thiêng liêng ngự trị đất trời. Đêm giao thừa, pháo nổ rền khắp làng. Tiếng chuông chùa vọng thinh không, ngân vang, đón mừng năm mới. Lão nghe lòng thanh thoát, lâng lâng…
     Mỗi năm hai kỳ, lão vào Saigon khám bệnh. Bệnh viện Grall, phát hiện lão bị Áp-xe gan, Áp-xe gan là bệnh lý có nhiều mủ trong nhu mô gan do amip gây ra. Lão nghi thức ăn hằng ngày, kém vệ sinh. Lão phải nằm bệnh viện, ít nhất sáu tháng – Lão Bạc vẫn giữ quốc tịch Tây, được hưởng theo tiêu chuẩn dân Tây.
     Lão gửi “télégramme” về cho cô Dung. Khỏi phải nói, cô Dung lo lắng đến cỡ nào, nhưng cô tự an ủi, đã có bệnh viện Tây. Cô nhờ thầy giáo Sung, dân tây học, “quánh” cái điện tín, báo tin cho vợ con lão. Hơn nửa tháng sau, bác “facteur”, trao cho cô bức điện tín. Cô Dung nhờ thầy Sung, dịch nghĩa dùm. Chỉ vỏn vẹn mấy chữ:” Ai đeo đồng hồ, người ấy tự sửa”. Cô Dung chẳng hiểu ý tứ ra làm sao. Không lẽ bên trời tây, không có tình thương máu mủ, không biết thế nào là công lao sinh thành dưỡng dục? Thầy Sung thở dài:“- Không lẽ lão Bạc là…cái đồng hồ ?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

TRĂNG TREO MÁI LÁ

Tôi đi loanh quanh vì không biết đường, vác trên vai bao tải nặng trịch. Bỗng nhiên cô gái từ trong nhà bước ra chận đường: - Anh tìm ai mà...