Cuộc khởi nghĩa do anh em Tây Sơn lãnh đạo,
bùng nổ năm 1771. Tây Sơn thuộc phủ Quy Nhơn, từ đồng bằng phía bắc tỉnh Bình Định
(hạ đạo), lên đến vùng cao nguyên
phía tây dãy Trường Sơn (thượng đạo).
Ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ từ Kiên Mỹ đã lên đây lập căn cứ địa.
Đồn luỹ của nghĩa quân Tây Sơn, được che chắn bởi quần sơn Ngọc Linh ở phía bắc,
dãy Trụ Lĩnh trùng điệp ở đông nam. Sông Ba và suối Cái là chiến hào phía tây. Toàn bộ khu vực này, một lần nữa lại được bao bọc bởi một vành đai
núi non án ngữ ở phía đông, gồm dãy đèo Mang, sườn đông dốc đứng, cùng với ba
ngọn núi lớn là hòn Bình, hòn Nhược và hòn Tào, tạo thành bức tường thành thiên
nhiên vĩ đại. Núi ông Bình (Nguyễn Huệ)
có thể quan sát đến tận vùng hạ đạo, bờ biển Quy Nhơn. Hòn Bình nối với hòn
Nhược (Nguyễn Nhạc) bằng một lũy đắp
kiên cố, tạo thành thế liên hoàn án ngữ phía đông và nam. Trong khi đó dưới
chân hòn Tào (Nguyễn Lữ) là khu vực
gò Kho, xóm Ké, nơi nghĩa quân đồn trữ binh lương, tập hợp các dân tộc bắc tây nguyên như người
Bahnar, Jrai…
“Tuy nhiên, nếu không có
một người con gái Ba Na thông minh và xinh đẹp giúp sức thì Nguyễn Nhạc cũng
khó lòng chiếm được cảm tình của người dân Ba Na nơi đây. Nàng tên là Ja Dok,
con của vị tù trưởng Ba Na hùng mạnh và giàu có. Những ngày Nguyễn Nhạc lên đây
buôn bán trầu, bà có cảm nhận người này không chỉ đi buôn mà đang ấp ủ một việc
lớn. Cảm tấm lòng người anh hùng, bà Ja Dok nhận làm vợ của ông. Với sự giúp
sức của bà, Nguyễn Nhạc đã lấy được lòng cha bà là vị tù trưởng. Bà đã vận động
cha và dân trong vùng ủng hộ cho nghĩa quân Tây Sơn 300 thớt voi, 400 ngựa và
hàng trăm gùi lương thực.
Kể từ đó công việc của
bà gắn với hoạt động của nghĩa quân. Từ thị trấn An Khê đi về phía nam là con
đường độc đạo bé xíu, nhưng bà và Nguyễn Nhạc cũng đã đi cả trăm dặm đường vào
tận làng Đê H'lang, xã Yang Nam, huyện Kông Chro, dưới chân núi Ja Prum để
thuyết phục đồng bào Ba Na nơi đây đi theo cuộc khởi nghĩa.
Người dân vùng này kính trọng gọi bà Ja Dok bằng tên ngọn Ja Prum,
ngọn núi cao nhất trong vùng. Sau khi bà mất đi, người Ba Na đã an táng bà trên
ngọn núi cao nhất phía đông và lấy tên bà đặt cho ngọn núi, núi Ja Dok”(*)
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26-12-1788) đại quân Tây Sơn ra đến Nghệ
An, đóng ở đấy mươi ngày để tuyển thêm lính. Vài ngày sau, số quân của Quang
Trung đã có đến hơn 10 vạn người. Sau đó, thẳng tiến ra Thanh Hóa. Ngày 20
tháng 12 Mậu Thân (15-01-1789), đại quân đến chân đèo Tam Điệp. Vua Quang
Trung chia đại quân làm năm đạo tiến ra Bắc Hà.
Tôn Sĩ Nghị đang lo lắng vì Hạ Hồi bị hạ và đồn Ngọc Hồi đang
trong nguy cơ bị tiêu diệt, thì tin đồn Khương Thượng tan tành đã khiến y sợ
hãi đến tột đỉnh, đến nỗi giáp không mặc, ngựa không đóng yên, vội vàng vượt
câu phao tháo chạy, quên cả ấn tín và các thứ chiếu chỉ thủ bút của vua Thanh.
Quân lính Thanh thì như rắn mất đầu tranh nhau tìm lối thoát thân. Sợ bọn này
quá đông gây khó khăn cản trở cho con đương rút chạy nên Tôn Sĩ Nghị nhẫn
tâm ra lệnh chặt cầu phao. Thế là hàng vạn quân Thanh bị chủ tướng của chúng
ném xuống lòng sâu sông Hồng.Trưa ngày mùng 5 Tết Kỷ Dậu (30-01-1789) vua Quang
Trung vào Thăng Long giữa sự đón chào hân hoan nồng nhiệt của
đồng bào kinh đô.
Tháng 3 âm lịch năm 1799,
Nguyễn Ánh tự cầm đại quân đi đánh thành Quy Nhơn, đánh chiếm các vùng xung
quanh rồi tới vây thành Quy Nhơn, riêng Nguyễn Ánh dựa thế thủy binh có lúc tiến
ra tận Quảng Ngãi. Đô đốc Tây Sơn
là Lê Chất đầu hàng . Tháng 6 âm lịch năm 1799,
Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu tiến quân tới Quảng Ngãi, Lê Văn Duyệt và Tống
Viết Phước chặn lại ở Tân Quan. Diệu và Dũng định phối hợp đánh úp quân Nguyễn
lúc nửa đêm, không ngờ có người gặp con nai kêu lên, quân Tây Sơn tưởng bị quân
Đồng Nai (Nguyễn Ánh) phục kích, đội
hình tan vỡ, bị quân Nguyễn truy sát.
Sau khi chiếm được thành Quy Nhơn, Nguyễn Ánh bèn đổi tên Quy Nhơn thành
Bình Định, rồi cho quân tới trấn giữ thành. Đồng thời, Nguyễn Ánh cũng tìm cách
thu phục dân chúng vùng Quy Nhơn vì ông biết rất rõ đây là đất phát tích của
Tây Sơn.
Sau khi chiếm được Phú
Xuân, Nguyễn Ánh làm lễ lên ngôi hoàng đế ngày 2 tháng 5 năm Nhâm Tuất (nhằm ngày 1 tháng 6 năm 1802) chọn niên hiệu Gia Long. Sau vài tháng
nghỉ ngơi ở Phú Xuân, vào ngày giáp tuất tháng 11 (7 tháng 11 năm Nhâm
Tuất, nhằm ngày 1 tháng 12 năm 1802)
Nguyễn Ánh tiến hành làm lễ "Hiến Phù" (lễ dâng tù) nhằm báo
công với tổ tiên; và nhân đó tiến hành trả thù gia đình Quang Toản và những người theo Tây Sơn
một cách tàn bạo:
·
Quang Tự, Quang Điện, Nguyễn Văn Trị rồi các con của Nguyễn Nhạc gồm Thanh, Hán, Dũng bị giết
ngay sau khi bị bắt, 31 người có quan hệ huyết thống với Nguyễn Huệ đều bị xử lăng trì.
·
Quang Toản và những người con khác của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ là
Quang Duy, Quang Thiệu và Quang Bàn bị 5 voi xé xác, đầu bị bỏ vào vò và giam
trong ngục.
·
Nữ tướng Bùi Thị
Xuân và con gái bị voi giày, chồng
bà là Trần Quang Diệu do trước đó đã có lần tỏ ra khoan thứ
cho quân Nguyễn nên
xin được Nguyễn Ánh tha cho mẹ già 80 tuổi trước khi bị xử chết...
·
Lăng mộ nhà Tây Sơn như các lăng của vua Thái Đức và vua Quang Trung bị quật lên, hài cốt bị giã nát quăng
đi, đầu ba vua Tây Sơn (Thái Đức, Quang
Trung và Cảnh Thịnh) và bài vị vợ chồng Nguyễn
Huệ thì bị giam trong ngục tối.
·
Các quan văn khác của Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm và Phan
Huy Ích ra hàng thì cho đánh đòn
và được tha về (riêng Ngô Thì Nhậm thì bị Đặng
Trần Thường trước có thù riêng
nên cho người đánh chết). (**)
Gia Long và sau này là nhà
Nguyễn thường hay dùng từ ngụy khi nhắc tới Tây Sơn. Những từ
"ngụy Tây Sơn", "ngụy Tây","ngụy triều", "ngụy Huệ", "ngụy Nhạc”. Việc
gọi tên này phổ biến trong suốt thời gian nhà Nguyễn còn mạnh, khi hầu hết các
văn sử chính thống của triều đình, đều dùng các từ trên mỗi khi nhắc đến nhà
Tây Sơn, đơn cử là cuốn Ngụy Tây liệt truyện của Quốc Sử quán triều Nguyễn.
Lẽ dĩ nhiên con dân
Bình Định, Qui Nhơn là “nguỵ dân”. Thời
Tây Sơn hùng mạnh, chiến tranh khốc liệt, từ già đến trẻ, trai tráng nào không
bị ép buộc theo quân Tây Sơn ? Phận người đã bị kỳ thị, khinh rẻ, dè chừng, trù
dập, đối phó ngay chính tại quê hương mình, dân tộc mình. Nỗi buồn, nỗi “lo” của thân phận nguỵ dân, ăn vào máu thịt, đã mấy
đời cha ông…
Phần đọc thêm:
Về
chuyện vua Gia Long trả thù Tây Sơn, nhà viết sử Trần Gia Phụng đã đi xa hơn
các học giả đi trước khi lần đầu tiên ông phân tích rằng:
“Không kể cá nhân ông (Gia Long) bị quân đội Tây Sơn truy
đuổi nhiều lần suýt chết, vua Gia Long thâm thù nhà Tây Sơn vì ba việc chính:
thứ nhất, năm 1777 Định Vương Nguyễn Phúc Thuần [chú ruột vua Gia Long], Tân
Chính Vương Nguyễn Phúc Dương [em chú bác ruột] và Nguyễn Phúc Đồng [anh ruột]
bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia Định. Thứ nhì, hai người em [ruột] của Gia Long
là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn năm 1783.
Thứ ba, vua Quang Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia
Long), đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790” (Việt Sử Đại Cương, Tập 2, tr.445).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét