Anh chị Hai: chồng chính, vợ phụ. Nghề thợ
xây như dân Digan, “người đi xây những công trình, nhà cao cửa rộng là mình ra
đi”. Ba đứa con ở quê nhà, con Hạnh lớp mười, thằng út lớp ba. Thằng Minh ở giữa,
chưa xong lớp tám bỏ ngang, làm công nhân lò gạch.
Không như cánh thợ trẻ, chiều thứ bảy lãnh
lương, góp nhau nhậu đã đời, gọi là bồi dưỡng sau một tuần cật lực.
Anh Hai chở chị về ngang chợ, mua vội bó
rau, ký thịt mỡ nhiều hơn nạc, kho mặn chát với tiêu. Dành cho tuần tới.
Căn phòng mười hai mét vuông hình như quá
rộng, chỉ có chiếc giường đôi, bếp lò cùng mấy cái nồi cũ kỹ. Anh bắc ghế ngồi
trước phòng trọ, đôi mắt buồn hiu nhìn xa xăm. Mùi xào nấu ngào ngạt thơm, băng
qua cửa sổ, xộc vào mũi anh. Anh thở dài nhớ về các con, “nhớ canh rau muống nhớ
cà dầm tương”.
Chị đứng sau lưng anh lúc nào không hay, mắt
đỏ hoe. Chị lấy chéo khăn lau, cười méo xẹo:”Nấu xong bữa ăn, khói trộn lẫn mồ
hôi cay xè!”. Chị rụt rè:”Tui định hết tháng về với mấy đứa nhỏ, sắp khai giảng
rồi. Đầu năm học “căng” thiệt à ông! Hơn nữa, tui…”. Chị kéo tay anh, má ửng hồng
pha trộn ráng chiều, mặt trời khuất dần bên kia con kênh, nước đen ngòm.
Con đã vào trường, bụng chị nhô lên lum
lúp. Thằng Minh chạy về như cơn lốc, hơ hải:”Ổng bị sập giàn giáo, té gãy
xương…”. Chị như Từ Hải, chết đứng.
Chưa kịp dặn dò con Hạnh, hàng xóm đã đến
đầy nhà, ai cũng xăng xái cho chị mượn tiền, người nhiều lắm cũng chưa tới năm
trăm, nhà quê lấy đâu. Chú Tam lột chiếc nhẫn một chỉ, định để dành đám cưới
cho con trai. Bà Năm “kẹo” thường ngày khó ưa, lẳng lặng mở túi yếm gài hai lần
kim băng, lôi ra xấp tiền đủ loại, đếm hơn một triệu.
Thằng Minh đèo mẹ ra quốc lộ, đường làng
qua mấy cơn mưa, trơn như thoa mỡ, chị bấu chặt lưng con. Xa xa, ánh đèn pha của
những chuyến xe xuôi ngược, quét trên mặt đường nhựa còn đọng nước mưa, phản
chiếu vệt sáng chói mắt. Thằng Minh loạng choạng, quăng mẹ hắn cái ịch trên bụi
cỏ ven đường còn ướt đẩm. Chị Hai chống hai tay vào eo, cúi gập người thở dốc.
Cơn đau tức từ bên hông lan dần xuống bụng dưới, chị nghe như có dòng điện nóng
hổi, nhơn nhớt lăn dài theo đùi chị.
“Hoạ vô đơn chí”. Chú Tam ngồi rầu rỉ nhìn
con Hạnh. Ngoài trời trắng xoá cơn mưa dầm. Ông tha mà bà không tha, làm cho
cái lụt hăm ba tháng mười. Mọi năm quê mình chỉ có lụt, lụt mang phù sa bồi đắp
ruộng đồng, hạt gạo còn thơm mùi lúa mới. Bây giờ mới có lũ, lũ của lũ không có
trái tim người, phù sa cuốn theo hoa màu và sinh linh ra biển.
…….
Anh Giáp, con bà Năm “kẹo” bàn với mẹ bán
nhà, cả vườn với mấy sào ruộng, ra thành phố sống. Dầu gì ở phố vẫn hơn, không
lo mất mùa, không lo bão lũ, nhất là tình trạng an ninh thôn xóm. Bầy gà mái với
hai con gà trống, chuẩn bị giổ cha, một đêm tụi nó quất sạch, không một tiếng
kêu. Làng quê không còn yên bình.
Bà Năm nhìn lên bàn thờ:“Nỡ nào bỏ ông bà,
tổ tiên mà đi hả con. Bảy Lung xóm trên, đùm đế nhau đi rồi cũng về bám mảnh đất
này đó thôi!”. Mẹ nghĩ coi, từ việc nước, việc làng đến khuyến nông, khuyến học
đều nhờ “những người con xa quê”, mang tiền về đóng góp. Quê mình ai cũng quanh
năm đầu tắt mặt tối. Có ai khá không, có ai nghĩ ra phương kế gì để thoát nghèo
hay chỉ trông chờ như chờ viện trợ?
Xã thuần nông mà hạt giống trời ơi, phân
bón lại gặp phân giả, phá nát ruộng đồng. Thuốc trừ sâu thì sâu không chểt, chỉ
cây lúa chết. Ông Tỉnh, ông huyên có qưởn đâu mà về nghe mẹ kể chuyện tào lao.
Trời sang đông, mưa phùn gió bấc. Không
rét lắm nhưng khó chịu, mùa này chỉ ngồi chơi rồi quơ đại củ khoai, củ sắn lót
bụng. Hồi trước, mấy bụi tróc (dong riềng) trồng đầy ranh vườn, bây giờ mất giống. Cứ nghe ai
trồng cây gì, nuôi con gì phất lên, từ huyện đến xã hô hào tìm mua giống cho bằng
được, không cần biết có phù hợp thổ nhưỡng, tập quán, khí hậu quê mình hay
không. Nông nghiệp lụi tàn dần, dòng sông ô nhiễm không còn trong xanh. Cá tôm
cũng tìm đường thoát nạn.
Chú Tam dắt thằng Minh vào thăm cha nó. Vừa
xuống bến xe, người đông như kiến cỏ, ông cháu lớ ngớ bị giật mất túi xách đựng
mấy bộ đồ đã cũ, may không mất tiền.
Anh Hai bị gãy mấy xương sườn, tay cầm bay
bó bột treo lên cổ. Nhà thầu cũng có lương tâm, chăm lo cho anh qua cơn nguy kịch.
Chú Tam xin xuất viện, đưa hai cha con anh Hai về quê. Chị Hai sau ngày hư
thai, sức khoẻ kém đi thấy rõ, da xanh tái như thiếu máu, càng ngày sợ gần đàn
ông.
Không biết cơ trời thay đổi tốt lên hay
không. Bờ sông bên lở bên bồi, biền đất
bồi đắp cả trăm năm nay bỗng bị xói mòn dần, trôi tuột theo dòng nước đục ngầu,
hung hãn.
Bên kia sông mọc lên khu du lịch sinh
thái, ruộng đất bị thu hồi, đền bù rẽ mạt. Dân làng Tây như gà mắc tóc, ôm mớ
tiền vào khu tái định cư ngồi bó gối ăn dần, vô công rỗi nghề sinh ra lắm chuyện
đau lòng. Anh Thắng, thằng Minh được nhận vào chân bảo vệ của công ty Huỳnh
Hoang – chủ đầu tư. Thằng dốt khi có quyền hành đâm ra hống hách dễ sợ, cặp mắt
thằng Minh hất lên trời. Ông thầy Phú già xin bứng cây khế bằng tuổi ông sang
nơi ở mới, hắn quát tháo như hắn là chủ nhân ông:”Tất cả đã được đền bù, lấy tiền rồi, bây giờ là của nhà nước”.
Anh Hai đã khoẻ, được tuyển vào đội thi
công. Đội thi công của chủ đầu tư có khác, mặc đồ lao động có phù hiệu sau
lưng, bao tay, nón bảo hộ vàng kệch. Lỡ té giàn giáo cũng không sao, không bị
chấn thương sọ não.
Con Hạnh được cho đi học khoá kế toán ngắn
ngày, phụ trách tiền lương. Từ khi ăn trắng mặc trơn, Hạnh xinh đẹp lên thấy
rõ, chị Hai nhìn con mà đâm lo.
Một lần anh Hai được mời đi nhậu, xe hơi
đón tận nhà. Thằng mặt chuột, mắt ti hí nghe đâu bà con gì của ông Huỳnh Hoang
đon đả:”Chà chà, nhà bác nhỏ quá, mai mốt
dọn vào dãy biệt lập trong khu sinh thái, cháu phụ một tay!”. Hắn tặng
riêng cho Hạnh chiếc xe máy cáu cạnh.
Với linh tính của người mẹ, chị Hai quyết
liệt từ chối dù món quà giá trị rất lớn, so với gia đình chị.
Lần
đầu tiên anh Hai đến chốn phù hoa, men rượu khiến anh như con người khác. Anh
cười nói huyên thuyên và tự hào nhìn quanh, khi thằng mặt chuột gọi anh là bố.
Anh say khướt, chân nam đá chân chiêu. Anh vất ra giữa bàn cọc tiền mới cáu,
chưa bao giờ cả nhà anh thấy nhiều tiền như vậy.
Hai bên bờ tả, hữu ngạn sông Sinh như hai
thế giới. Bên kia sông, tiếng động cơ ầm ì suốt ngày đêm, sáng trưng ánh đèn
cao áp. Nghe đâu sẽ có cầu nối hai bờ , con đường dẫn sẽ cắt ngang ranh nhà anh
chị Hai. Thằng Minh tuyên bố:”Nhà mình sẽ
ra mặt tiền, con đường nhựa nối khu du lịch sinh thái và chạy về thành phố, đổi
đời rồi!”. Mà quả thật, anh chị Hai khá lên thấy rõ.
Ngược lại, lòng bà con hoang mang. Sự bất
an hằn lên thành rãnh dọc ngang trên những khuôn mặt già nua, khốn khổ. Chú Tam
lý sự:”Người ta mở mang giao thông để
phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu văn hoá vùng miền, nâng cao đời sống, tiến
dần đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Nhưng tui e rằng đây là ý đồ mở
rộng, chiếm đất của thằng Huỳnh Hoang!”.
Đúng y như lời, hơn hai mươi hecta hữu ngạn
sông Sinh bị giải toả trắng bốc. Mơ ước nhà mặt tiền của thằng Minh theo mây
theo khói. Anh chị Hai cũng như bao người dân khác trong làng cùng chung số phận
với bà con bờ tả ngạn, bên kia sông.
Gia đình anh chị Hai, chú Tam từ khi có đồng
tiền đền bù, chỉ đủ làm nhà trên mảnh đất gò tái định cư khang trang, nhưng chỉ
gần trăm mét vuông, nông nghiệp mấy đời nhưng không có đất canh tác. Ngày xưa
chợ làng quanh năm nhộn nhịp, đổi trao con gà, trái bí, bó hành, con heo, con vịt,
xấp vải, cái nồi… Quy hoạch khu du lịch sinh thái người ta quên làm trường, trạm
y tế, làm chợ.
Anh Hai còn có nghề thợ hồ, chú Tam và bà
con làng Đông ngồi bó gối nhìn nhau, lũ trẻ chưa đến mức “bần cùng sinh đạo tặc” nhưng rảnh rỗi sinh nông nổi, cà phê cà
pháo suốt ngày, tập tành đua đòi ăn chơi, nhậu nhẹt. Thằng Minh dính vô vụ buôn
bán heroin, tù chung thân. Con Hạnh có bầu mất việc, thằng bé sinh ra giống hệt
thằng mặt chuột.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét