Từ ngày con Hà mang bụng bầu theo thằng Thức về nhà, bà Hồng vừa lo vừa
mừng. Không lo sao được, miệng lưỡi xóm Bưng này có chừa ai đâu. Ông Minh cán
bộ to về hưu, kín cổng cao tường, có thằng con xì ke, phá gia chi tử cũng lọt
ra ngoài. Nhà hai Đờm giả dạng thầy tu, cạo đầu trọc lóc. Chồng ê a kinh kệ,
cốc cốc keng keng, học làm thầy cúng. Mụ vợ bán hương đèn, áo giấy, tiền vàng,
đô la âm phủ. Cô tư Bân phá thai chui…
Thứ gì không rộ làng rộ
xóm, vậy mà…
Bà Hồng nghĩ đến gia
phong nhà bà, mấy đời làm thầy cô giáo. Ông Hồng bị bệnh qua đời, để lại cho bà
con Tâm thằng Thức, khi chúng vừa mới lớn. Tuổi cập kê khó dạy, nhưng nhờ con
gái đầu lòng, nên thằng Thức tính nhu mì, ngoan ngoãn, ý thức cảnh mẹ goá con
côi.
Bà sinh ra tại xóm
Bưng, gia tộc đã mấy đời. Ngày xưa thôn xóm đìu hiu, nhưng thanh bình yên ả.
Tiếng chim cu gù gọi bạn tình nghe xa vắng, đu đưa trên bụi tre sau vườn nhà.
Tiếng gà eo óc đầu thôn, vọng theo cơn gió nồm, gieo vào lòng bà những mộng mơ
thời xuân sắc.
“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi”. Bao nhiêu người tứ xứ, tụ về nhập
cư trên rẻo đất bìa làng. Mỗi ngày đông dần lên, sự xô bồ chụp giật, ganh ăn
ghét ở đẩy tấm lòng nhân ái, truyền thống cha ông xa tít cõi mịt mù.
Thời của bà được giáo
dục từ gia đình, học đường ra ngoài xã hội. Những tấm gương ngời ngời trong đời
thường, đi đâu cũng gặp. Họ lam lũ sinh nhai, nhưng tấm lòng trong veo đầy nhân
nghĩa.
Bà dạy con nghiêm khắc,
thương yêu nhưng chớ nuông chiều. Khi con Tâm, thằng Thức vào cấp hai, bà lo
thực sự. Bà như mẹ gà, lom lom canh giữ đàn con với lũ quạ diều, chực chờ buông
móng vuốt.
Con Tâm tốt nghiệp đại
học sư phạm. Cuộc sống gia giáo thanh lương un đúc nên tính cách mô phạm, tôn
sư trọng đạo đã ăn sâu vào tâm não cô giáo trẻ. Hành trang cho Tâm chập chững
vào đời.
Ngày sắp ra trường, cô
thực tập tận miền núi xa xôi. Những đôi mắt thơ ngây, chân chất nhìn cô đậm đà lòng
kính yêu, lưu luyến. Tình thương trẻ em nghèo, hiếu học dâng tràn trong tâm hồn
cô. Cô nguyện sẽ suốt đời gắn bó với lương tâm, chức nghiệp làm thầy.
Bà Hồng dâng hương bàn
thờ gia tiên, lầm thầm khấn vái. Bà gọi Thức, Hà dặn dò việc nhà. Nhìn bụng Hà
lộ rõ, bà xót xa. Bỗng nhớ về thời bà và ông Hồng yêu nhau, môn đăng hộ đối
suýt vỡ mối tình thơ ngây, nồng cháy của bà. Bà cũng đã từng nghĩ sẽ…
Đường về miền tây chói
chang nắng. Chiếc xe đò lắc lư trên đường gập ghềnh hướng Châu Đốc, An Giang. Dòng
kênh Vĩnh Tế trong veo như tấm lòng người dân Nam bộ. Bà nhớ bài “Tế nghĩa
trủng văn”(Thừa đế lịnh, tế cô hồn kênh
Vĩnh Tế tân kinh) của Thoại Ngọc Hầu, ghi nhận công lao của hơn 80.000
chiến sĩ, sưu dân đã bỏ mình khi đào kênh vĩnh Tế ròng rã 5 năm (1819-1824).
...Đào kênh trước,
mấy kỳ khó nhớ
Khoác nhung y chống
đỡ biên cương.
Xông pha máu nhuộm
chiến trường
Bọc thây da ngựa,
gửi xương xứ này
Quê cách trở, lấy
ai hộ tống,
Sống làm binh,
thác chống quỷ ma.
Than ôi, ai cũng
người ta,
Mà sao người lại
thân ra thế này?...
...Giờ ta vâng lệnh bệ rồng,
Dời ngươi an
táng nằm chung chốn nầy.
Chọn đất tốt thi
hài an ổn,
Cảnh trời thanh
vui nhộn cùng nhau.
Hằng năm cúng tế
dồi dào,
Tràn trề lễ trọng
dám nào để vơi...
Khi hoàn thành, vua Minh Mạng lấy tên vợ của
Thoại Ngọc Hầu là bà Châu Thị Vĩnh Tế, đặt tên cho con kênh này.
Bà Hồng theo xuồng gắn máy đuôi tôm, lênh
đênh theo dòng kênh. Từng dề lục bình trôi xuôi vô định như con bé Hà, có được
làm con dâu nhà bà?
Không biết bà hỏi từ đâu. Nhà ba mẹ Hà nằm
chênh vênh trên bờ kênh, cây cối mọc xum xuê: bần,
mắm, dừa
nước, ô rô, cóc kèn, choại, ráng…
nước, ô rô, cóc kèn, choại, ráng…
Người đàn ông đang
mặc quần đùi, ngạc nhiên nhìn người đàn bà thị thành tay xách nách mang, xăm
xăm bước vào. Cha mẹ Hà bối rối, chưa biết lạ hay quen nhưng vồn vã mời chào.
Bà Hồng nhìn
quanh, căn nhà lá đơn sơ. Nổi bật chỉ có bằng tốt nghiệp cấp 3 của Hà, được lồng
khuôn trang trọng.
Bà Hồng đứng lên,
khoanh tay như học trò nhỏ trước mặt thầy cô. Lời xin lỗi vì đường đột đến thăm
nhà. Lời sẻ chia của người mẹ vì mang tin không vui, lời ân hận của người sinh
thành không dạy con tròn đạo hiếu. Bà Hồng nói rõ mọi điều.
Ông bà Hai như
trên trời rớt xuống. Ông bà chỉ có mỗi bé Hà. Ông Hai loay hoay không biết nói
gì, vấn vội điếu thuốc rê mà hai tay run run. Không biết ông giận dữ hay xúc động.
Bà Hai cúi gầm mặt, như mình có lỗi…
Chuyện đã lỡ. Bà Hồng
trịnh trọng đặt lên bàn khay trầu cau rượu và chiếc phong bì sính lễ. Bà đi hỏi
vợ cho con.
Ông bà Hai qua cơn
bối rối, rót ly trà đậm đen do nước phèn, hai tay mời bà Hồng. Tấm lòng người
dân Nam bộ bộc trực, bày tỏ thái độ rõ ràng “có
thương thì bảo rằng thương, không thương cũng nói một đường cho xong”.
Bà Hồng lấy xấp
thiệp mời, phần bên nhà gái chỉ có Ông bà và những dấu chấm lửng…
Trước ngày cưới một
tuần, bà Hồng đích thân mời bà con chòm xóm. Đến nhà ông Minh cán bộ, những
khuôn mặt không lạ cũng đang ở đây, bà e dè bước vào chào khắp lượt. Từng thiệp
mời được nắn nót tên người nhận. Bà trịnh trọng gởi tận tay, có người đứng lên
cũng có người trịch thượng, đưa hai ngón tay kẹp tấm thiệp mời, để xuống mặt bàn
đầy xương đã gặm nham nhở phần thịt.
Bà cúi đầu chào và
quay lưng, tai nghe văng vẳng tiếng xì xào:“Phình
bụng mới cưới, bày đặt…/ Mất m… nửa tháng lương!...”. Tiếng cười khoái trá
đuổi theo chân bà. Bà sực nhớ hôm nay, ngày kỷ niệm “Thương binh Liệt sĩ”.
Gần tuần nay, cô
giáo Tâm đi dạy về, vào phòng riêng. Nhìn con ủ dột, không hân hoan như những
năm mới vào nghề. Bà Hồng bất an. Chim đủ lông rời tổ, mẹ chim có đau đáu dõi
theo bóng con? Từng niềm vui nỗi buồn của đàn con, có sẻ chia hay bận lòng lo lắng
như bà?
Học trò thành phố
của cô, đã ‘trưởng thành” hơn những
gì cô nghĩ. Sự gắn bó tin yêu rời rạc, đôi mắt thơ ngây nhìn cô xen lẫn hoài
nghi. Không như những học trò miền núi xa xôi, mộc mạc chân tình. Dâng cả trái
tim mình, như thời cô đi thực tập.
Niềm đam mê lụi
tàn, nghĩa là thiên chức làm thầy sẽ chết. Cô đã từng thả hồn bay theo những
áng văn hay, những câu thơ xúc động lòng người, học trò cô mê say quên cả tiếng
trống tan trường. Nhưng sự trích dẫn của của cô đã lạc đề.
Bà Hồng bất lực
nhìn con héo hon. Thời của bà, giáo dục và sáng tạo đã thoát ra ngoài vòng
cương toả. Tâm hồn thăng hoa theo cảm xúc, nhưng vẫn giữ trọn đạo nghĩa làm người.
Chính bà cũng
không dám bày tỏ cùng ai nỗi niềm riêng. Bà cô đơn vò võ từ ngày ông Hồng xa
bà. Nhưng đau lòng vì người ta cho bà hợm hỉnh. Bà cố giữ tiết tháo của thân
sinh. Nhà nho cao đạo.
Ngày Thức tốt nghiệp
đại học Kinh tế, cũng là ngày vui lớn nhất đời bà: Hà sinh cho bà đứa cháu nội
kháu khỉnh, khuôn mặt như ánh trăng rằm, đôi mắt đen tròn, ngộ nghĩnh đáng
yêu.
Bà Hồng dành phần
chăm sóc cháu, để Hà tiếp tục đến trường. Sự đô thị hoá đã thay đổi bộ mặt xóm
Bưng, nhưng cuộc sống của những người dân tha phương cầu thực, lại lam lũ hơn
xưa.
Bà Hồng quyết định
bán nửa phần đất sau vườn. Bà cùng các con, xin phép xây dựng trường tiểu học
dân lập TÂM THỨC.
Năm đầu tiên các
em học miễn phí. Những đứa trẻ bơ vơ, không nơi nương tựa được nội trú. Ngoài học
văn hoá theo chương trình phổ thông, các em được bồi dưỡng kiến thức đạo đức
truyền thống Á đông. Những tấm gương làm NGƯỜI là chủ đề sinh hoạt ngoại khoá.
Cách dạy gợi mở, tranh biện bằng lý lẽ và dẫn chứng, lôi cuốn các em.
Dưới bóng mát cây
bàng già, cô giáo Hà nhìn cơ ngơi ngôi trường TÂM THỨC, bao nhiêu dự định vụt
sáng trong đầu. Đâu phải vô tình, cha mẹ đặt tên chị em cô là TÂM THỨC?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét